Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tìm hiểu về khái niệm công bình của Amartya Sen qua tác phẩm The Idea OF Justice

22 Tháng Ba 201100:00(Xem: 14269)
Tìm hiểu về khái niệm công bình của Amartya Sen qua tác phẩm The Idea OF Justice

TÌM HIỂU VỀ KHÁI NIỆM CÔNG BÌNH
CỦA AMARTYA SEN QUA TÁC PHẨM THE IDEA OF JUSTICE

Đỗ Kim Thêm

1. Đại ý

Công bình một đề tài tranh cãi quen thuộc trong đời sống gia đình hằng ngày, thí dụ như chuyện ba đứa trẻ, Anne, Bob và Clara, cùng đòi làm chủ một cây sáo. Anne nhất quyết dành cây sáo cho riêng mình với lý do khá thuyết phục vì là người duy nhất trong gia đình biết chơi sáo, Bob lại dành phần là vì mình không có trò chơi nào và Clara phản đối vì là ngưòi đã bỏ công làm ra cây sáo mà lại không có quyền hưởng. Bố mẹ phải giài quyết làm sao đem laị công bình cho cả ba? Nhưng sâu xa hơn, công bình là một luận đề triết học xa xưa, mà nhận xét chua chát của Thomas Hobbes trong tác phẩm Levithian từ năm 1651đến nay vẩn còn giá trị: „Đời người là sống khốn khổ như thú vật và ngắn ngủi“, thì còn tìm đâu ra công bình cho kiếp người?

Với hai khởi điểm này Sen đã đưa người đọc đi vào thế giới suy tưởng của ông về công bình, một công trình tổng hợp nhiều luận thuyết của Thomas Hobbes, John Lockes, Immanuel Kant, Adam Smith, Condorcet, Mary Wollstone, Karl Marx, Stuart Mill, đặc biệt nhất là phê bình thuyết công bình của John Rawls. Vì là ngưòi gốc Ân Độ, ông cũng không quên đem giáo lý của Phật giáoẤn Độ giáo để giới thiệu và so chiếu. Mục đích của ông không xây dựng một học thuyết mới về công bình mà đưa ra một phương cách hành động thực tiển làm cho thế giới bớt bất công hơn. Theo ông, lập luận và phản biện công khai trong một môi trường xã hội dân chủ là một điều kiện tiên quyết để đạt được công bình. Đó là nội dung chủ yếu của Sen trong tác phẩm mới nhất The Idea of Justice và sẽ được giới thiệu trong bài viết này.

Sen hiện là giáo sư đại học Harvard và đã đoạt giài Nobel về Kinh tế năm 1998. Một tác phẩm nổi tiếng của ông trước đây là Development as Freedom, nhằm đề cao vai trò kinh tế thị trường trong công cuộc phát triển tại các nước chậm tiến.

Sách được chia làm bốn phần và có 18 chương. Phần một đưa ra những đòi hỏi về công bình, phần hai giới thiệu những hình thức biện luận, phần ba đề cập đến những khà năng thực hiện và phần cuối cùng phân tích mối quan hệ giửa những biện luận công khai và phát triển dân chủ 

2. Định nghiã công bình trong môt hoàn cảnh cụ thể

Phần một gồm có sáu chương đề cập những vấn đề mối quan hệ giửa tri thức và tính khách quan, phê bình lý thuyết công bình của Rawls, vai trò của định chế đối với con người, sự phản kháng trong xã hội và tính trung dung trong các phương cách lập luận.Trong phần này ông đưa ra định nghiã về công bình trong một hoàn cành cụ thể để tìm hiểu vấn đề.

Trước tiên, ông dựa trên một định nghiã công bình theo quan điểm luật Ấn Độ thời xưa để thảo luận.Công bình gồm có hai khiá cạnh chủ yếu cần phân biệtnitinatya. Niti xét đoán về vai trò của các định chế và các thái dộ đúng đắn chung, trong khi natya là một khái niệm bao quát hơn để đánh giá về sự thực hiện công bình trong thực tế. Ân Độ đã biết tôn trọng natya hơn niti, và thuật ngử matsyanyaya là một lối diễn đạt bất công do cá lớn nuốt cá bé đã có đã có từ thời kỳ này.

Để thí dụ, Sen nêu lên trưòng hợp Kautilya là quân sư của Chandragrupta, vị vua đầu tiên của Ấn Độ, cũng là nội tổ của vua Ashoka. Kautilya luôn đề cao vai trò định chế và những cấm đoán nghiêm minh để đạt đến công bình xã hội.Trong khi vua Ashoka của Ân Độ lại cho rằng giáo dục mới cải thiện thái độ của con ngưòi, và quan trọng hơn là nghiêm cấm qua định chế và luật lệ. Thấm nhuần lời Phật dạy về lòng khoan dung, vua Ashoka đề cao sự công bình giửa các tôn giáo. Ông cho rằng người nào chỉ biết tôn trọng tôn giáo mình mà bất kính tôn giáo khác thì thái độ này là bất kính với tôn giáo mình. Cả hai khuynh hướng này bổ sung cho nhau trong hoàn cảnh của Ấn Độ lúc bấy giờ.

Để tránh chủ quan, cục bộ và địa phương khi nhận chân giá trị công bình, Sen đề nghị nên sử dụng khái niệm „nhà quan sát độc lập“ của Adam Smith. Adam Smith cho rằng phải lấy quan điểm của đa số làm chuẩn và dựa trên các sự dị biệt về kinh nghiệm để phán đoán. Sự khác biệt giữa Ralws và Sen là Ralws theo quan niệm về định chế (trancendental institutionalism), trong khi Sen thiên về thực tế và theo khảo hướng đối chiếu (realization-focused comparison). Trong khi Rawls đề xuất về công bình bằng cách suy diễn dựa trên một định chế độc nhất và khô cứng, thì Sen cho rằng con ngưòi dầu có những vị thế khác nhau vẫn có thể theo đuổi mục tiêu riêng, nên không thể đưa tất cả vấn đề vào những khuôn mẩu đã định hình trước để trước để suy luận.Theo Rawls, công bình là khởi điểm để thiết lập định chế cho xã hội, nhưng Rawls đã đơn giản hoá tối đa một vấn đề cực kỳ phức tạp nhằm đem lại sự hài hoà của công bình và thái độ của con người.Theo Sen, điểm yếu của Ralws là giải thích vấn đề một chiều vì định chế chỉ là một phần của vấn đề và cũng không đưa ra một phương thức kiểm chứng nào cho thấy thuyết công bình này sẽ đưa tới kết quả tốt hơn. Sen cho rằng phải kiểm nghiệm lâu dài những tình trạng xã hội phát sinh trong thực tế để có thể so sánh những gì đã xảy ra rồi tìm những tiêu chuẩn công bình, thay vì đề ra một lý thuyết chung. Ông thí dụ nếu đưa ba tình trạng X, Y và Z để xét về công bình, khi xác định đưọc X là tốt nhất thì không nên tiếp tục so sánh giửa Y và Z. 

Thật ra, bất mãn trước một bất công hay cần xác định một cứu cánh cho công bình là đề tài đã được Jean-Charles de Borda và Condorcet, hai nhà toán học người Pháp, nghiên cứu từ thế kỷ XVIII. Họ dùng phương thức toán học để tìm ra cách tính gộp lại các ưu tiên cá nhân, dựa vào cách so sánh do các cá nhân đưa ra, tìm ra các kết quả đối nghịch, rồi từ đó có thể tìm ra những kết quả chấp nhận đưọc gọi là những ưu tiên của đa số. Nghịch thuyết của Condorcet đã được nhà kinh tế học Kenneth Arrow triển khai thành định lý về sự bất khả. Đề nghị này có những khuyết điểm vì theo kiểu định mẩu cũng không hề quan tâm đến những nhu cầu thực tế của từng nhóm khác biệt nhau trong xã hội. Nạn đói nghèo, thất học, bệnh tật, kỳ thị, quyền của nử giới đòi hỏi cần phải có những tiêu chuẩn về công bình khác nhau. Arrow thú nhận ngoài những thảo luận lý thuyết, thực tế cho thấy chưa có một mô hình chọn lưạ về công bình nào có thể thoả mãn cho đa số và đựơc coi là thuần lýdân chủ. Condorcet cũng đã thấy điểm khó khăn chủ yếu khi xét đoán công bình là thiếu thông tin. Ông nhấn mạnh vai trò giáo dục nử giới và những cuộc thảo luận công khai.

Đồng quan điểm với Condorcet, Sen cho rằng hiện nay các triết thuyết về công bình chỉ dựa trên sư phân loại trong một hệ thống nào đó rồi so sánh nên bất bình xảy ra là chuyện đương nhiên. Quan điểm bất toàn và cục bộ cố hữu này chính là khởi điểm để Sen tìm ra một giải pháp toàn bộ cho vấn đề công bình, mà theo Sen, thông tin và thảo luận công khaiphương tiện để giải quyết. Nhưng lập luận như thế nào đó là chủ đề mà ông đề cập trong phần hai.

3. Những hình thức lập luận

Phần hai gồm có bốn chuơng nhằm giới thiệu những hình thức lập luận cụ thể trong một hoàn cảnh cụ thể để đạt đươc công bình. Thực ra, ông đã dùng giáo lý vị tha và tương thuộc của Phật giáo để phê bình các thuyết duy lý và duy lợi của phương Tây.

Theo ông, trong thời đại toàn cầu hoá thì quan điểm về một nhà quan sát độc lập của Adam Smith càng cần hơn bao giờ hết, vì nó giúp ta tránh được tinh thần cục bộ, địa phương, chạy theo tư lợiquên mình đang sống trong một thế giới đại đồng. Sen cho rằng thuyết duy lý và duy lợi đã đưa con ngưòi đến những thái độ cực đoan trong lúc chọn lưạ: người tiêu thụ chì muốn mua hàng tốt nhất mà giá lại rẻ nhất, nhà sản xuất muốn tạo ra sản phẩm ít vốn nhất mà bán lời nhiều nhất và doanh nghiệp tìm cách tăng thu doanh lợi bằng cách bớt đi phức lợi của công nhân. Thái độ duy lợi tối đa phản ảnh một sự giới hạn của lý trí trong lập luận, vì không chú ý tới những lập luận khác cũng như những lối chọn lựa khác có thể hợp lý hay công bình hơn mà thiện cảmvị thađiều kiện thiết yếu để ta quan tâm đến tha nhân và đóng góp hữu ích cho xã hội.

Ông phân biệt có hai mối quan hệ: trong mối quan hệ tương thuộc cá nhân thì vấn đề đối xử sao cho công bình tưong đối dể giải quyết, nhưng khi đặt vấn đề này trong tinh thần trách nhiệm thì chuyện bất công có thể xảy ra, nhất là khi trách nhiệm đi kèm với quyền lực. Vấn đề càng rỏ nét hơn khi đặt mối quan hệ bất cân xứng giửa con ngưòi với thú vật, vì chúng ta luôn tự hào thông minhtrách nhiệm nhiều hơn so với thú vật, từ đó mà chúng talý do để đối xử bất công không những đối với thú vật mà còn với đồng chủng yếu kém hơn. Trong mối quan hệ xã hội hiện nay có quá nhiều bất công, mà chủ yếu bắt nguồn từ việc lạm quyền. Ông dùng lời Phật dạy trong kinh Sutta Nipata và các tác giả phương Tây để soi sáng vấn đề nhân quyền. Ông nhấn mạnh đến bổn phận của cá nhân trong việc để giảm bớt bất công,

nhưng xác định khả năng để hành động đó là chủ đề mà ông thảo luận trong phần ba.

4. Lượng giá khà năng hành động

Phần ba có bốn chương đào sâu các vấn đề tự do, hạnh phúc, công bình và đánh giá khả năng để thực thi công bình.

Ông phê bình các lý thuyết về phát triển kinh tế trước đây khi quá đề cao vai trò các chỉ số về gia tăng tổng sản lượng quốc dân và lợi tức tính theo đầu ngưòi, cách này không những không diễn đạt được thực trạng xã hội mà còn lầm lẩn giữa mục tiêuphương tiện. Theo ông, đã đến lúc chúng ta phải thay đổi khái niệm phúc lợi xã hội mà các chỉ số khác quan trọng và trực tiếp ảnh hưởng hơn là phẩm chất cuộc sống, phúc lợi chung và tự do cá nhân. Tuy nhiên, ông cảnh báo không nên quá nghiêng về thuyết duy lợi cá nhân của Jeremy Bentham, vì chỉ lấy mức hưởng thụ tối đa của cá nhân làm thước đo hạnh phúc chung xã hội, trong khi đó khà năng chuyên môn, mức thu nhập lợi tức, nhất là sự may mắn của từng cá nhân vẫn còn quá dị biệt nhau trong từng hoàn cảnh cụ thể.

Theo Sen, điều quan trọng trong việc đạt đến công bình làm thế nào để xoá bỏ mọi chướng ngại cho cá nhân trong việc thực hiện tự do để mưu cầu hạnh phúc. Lượng giá khả năng không chỉ là mơ mộng và chờ đợi mà tìm những tiêu chuẩn hành động cụ thể trong môi trường riêng biệt, nhất là dám chọn những lối sống khác biệt, để từ đó tìm may mắn của đời mình, có thể là công danh, tiền tài hay địa vị xã hôi. Dĩ nhiên, nổ lực tối đa của cá nhân trong thể hiện tự do là điều chủ yếu, nhưng môi trường xã hội phù hợp cũng góp phần cho sự thành đạt. Khi phân tích khả năng của từng cá nhân, ông so sánh đến những vấn đề nổi bật trong một vài nhóm ngưòi bị phân biệt đối xử, thí dụ như người khuyết tật hay phụ nử tại các xã hội còn theo chế độ phụ quyền.

Ộng sử dụng khái niệm agency để diễn đạt khà năng và tư cách hành động để chuyển hoá tự do của từng cá nhân, khái niệm này không thể dịch chính xác trong tiếng Việt mà phải hiểu trong ngữ cảnh mà Sen lập luận. Thực ra, ông phê bình các lý thuyết về kinh tế phúc lợi trước đây đã không quan tâm đến khả năng hành động và những nổ lực nhằm thoát ra những nghịch cảnh, thí dụ như công nhân bị bóc lộc trong xã hội tư bản, nông dân trong xã hội nông nghiệp và gia nhân trong xã hội phong kiến. Vấn đề là làm sao để họ hưởng công bình hơn và có một đời sống đáng sống hơn, nhưng khi họ an tâm chiụ đựng và cố thích nghi với nghịch cảnh thì bất công sẽ kéo dài.

Ông dùng agency để phân tích hai mối quan hệ. Một là mối quan hệ giữa khà năng hành động của từng cá nhânphúc lợi chung, hai là mối quan hệ giữa tự do và kết quả thực hiện. Về mối quan hệ đầu tiên, ông cho rằng cần tìm hiểu mục tiêu cá nhân theo đuổi, dĩ nhiên mục tiêu này nhằm phản ảnh ước muốn cá nhân, có gắn liền với phúc lợi chung hay không. Về mối quan hệ giửa tự do hành động và kết quả đạt được đem so chiếu với phúc lợi chung và khà năng đạt đưọc mục tiêu riêng. Tổng hợp hai lối suy luận này chúng ta sẽ có bốn khái niệm khác biệt để có thể đánh giá đưọc toàn bộ vấn đề công bình 1) phúc lợi chung thu hoạch được, 2) phúc lợi riêng cho cá nhận qua hành động của riêng mình, 3) tự do qua phúc lợi và 4) mức độ tự do trong hành động.

Phân tích của ông đưa đến những suy luận mới hơn và có lẽ quan trọng nhất là đề cao tự do cá nhân trong hành động. Đây là điểm mà các nhà hoạch định chính sách phải ưu tiên chú ý, vì cá nhân không chỉ là người nhận phúc lợi xã hội, mà nên xem họ là một con ngườiý thức trách nhiệm hành sử trong tự do và sẽ mang đến phúc lợi chung. Hơn thế nửa, hành động này còn góp phần việc mở rộng dân chủ. Đó là đề taì mà ông dẩn chứng ở phần bốn.

5. Biện luận công khai là thực thi dân chủ

Phần bốn gồm có bốn chương bàn về các vấn đề thực thi dân chủ, nhân quyền và công bình trên toàn thế giới. Ông cho rằng lập luận công khai sẽ là điều kiện thực hiện công bình và dân chủ

Sen định nghiã rất đơn giản về dân chủ. Dân chủ, theo ông, không gì khác hơn là thực tập việc lâp luận và phản biện công khai trong mọi sinh hoạt xã hội. Chính những cuộc thảo luận các vấn đề chung một cách công khai thì các tiếng nói, dù cô thế hay dị biệt, đều được quan tâm và phân tích, có như thế thì xã hội sẽ dễ đạt đến công bình hơn. Nhưng thực thi các quyền dân sự và chính trị của ngưòi dân rất cần đến báo chí. Chính một nền báo chí độc lậptự do sẽ hổ trợ thiết thực cho việc thực thi dân chủ, vì báo chí không những đóng góp thuần túy trong vai trò thông tin mà còn là phương tiện tranh đấu cho ngưòi cô thế và hướng dẫn dư luận. Ông dẫn chứng nạn đói không hề xảy ra trong một nước dân chủ nào trên thế giới, mà chỉ có ở các nưóc bị ngoại thuộc, mà nạn đói Bangal, Ấn Độ năm 1943 là một thí dụ điển hình, nguyên nhânbáo chí Anh và Ấn độ đều im tiếng. Nhiều nạn đói khác tại như Liên Xô, Trung Quốc, Cambodia, Ethopia, Somalia và Bắc Hàn, mà bưng bít thông tin là lý do giải thích.

Sen cho rằng chính thảo luận công khai các dị biệt giúp chúng ta tìm hiểuthông cảm nhau nhiều hơn trước những vấn đề phức tạp như tôn giáo, chủng tộc hay bản sắc. Đây là một điều kiện giúp chúng ta có cơ hội đạt được đồng thuận, khoan dung, nhân ái, và nhất là giảm đi mọi đạo đức giả mang danh tôn giáo, mà Ấn Độ có nhiều kinh nghiệm này. Những cuộc thảo luận của dân chúng tại thành Athens Hy Lạp thời xưa về các vấn đề công cộng là một thí dụ lý tưởng. Theo Sen, từ xa xưa thảo luận công khai là một đặc điểm tại các nưóc Á Đông. Truyền thống tốt đẹp trong các cuộc hội luận của Phật giáo ngay sau khi Đức Phật nhập niết bàn là những bài học về dân chủ. Trong ba cuộc họp tại Rajagriha, Vaisali và Patna để thảo luận về việc kết tập kinh điển, Phật giáo đã chứng tỏ tinh thần thảo luận công khai, khoan dungtôn trọng dị biệt giửa các tăng đoàn, đây là một điểm son trong quá khứ. Một thí dụ khác của Nhật Bản cũng chứng minh tương tự. Năm 604 sau Công nguyên, Thái tử Shotoku, một Phật tử thuần thành, khi nhiếp chính đã soạn thảo hiến pháp với 17 điều khoản, cũng đề cao tinh thần thảo luận. Ông viết trong điều 7 của hiến pháp là „Mọi quyết định quan trọng không được phép do một người tạo ra, mà cần có sự thảo luận của nhiều người. Đừng bất bình khi người khác bất đồng quan điểm với mình. Mổi người đều có một tấm lòng, mà mổi tấm lòng đều có những lý lẻ riêng. Nếu cái đúng dành cho họ thì cái sai là của chúng ta, và cái đúng dành cho ta thì cái sai là của họ“. Các nhà luật học cho rằng hiến pháp của Nhật nhờ thấm nhuần giáo lý Phật giáobước đầu tiên để phát triển dân chủ.

6. Nhận xét

Tác phẩm của Sen là một công trình không những có giá trị về mặt tư tưởng mà còn là một phương châm hành động và đem lại nhiều thú vị cho nhiều giới khác nhau.

Đối với độc giả chưa đọc Sen bao giờ thì đây là một cơ hội hiểu rỏ tư tưởng cơ bản của Sen đã trình bày trước đây, thí dụ như nạn đói tại các quốc gia không có tự do, phê bình các lý thuyết cổ điển về phát triển kinh tế và đề cao vai trò của thị trưòng và báo chí cho các nước chậm tiến. Đối với người đã đọc Sen rồi, thì đây là một công trình bổ sung, nhất là ông đi sâu vào việc phê bình thuyết công bình của Ralws.

Đối với đọc giả phương Tây đang được sống trong môi trường tự do, quen thuộc với tinh thần duy lý và văn hóa tranh luận thì điều mới lạ mà Sen mang lại là giáo lý Phật giáotriết học Ấn Độ. Khi hiểu được tinh thần vị tha trong một thế giới tương thuộc, nhất là các mối quan hệ đến thú vật, tha nhân và môi trưòng sống, họ có cơ hội để xét lại về khái niệm công bình và cảm thấy trách nhiệm hơn là tiếp tục theo đuổi duy lý và duy lợi.

Nhưng quan trọng và đặc sắc nhất của Sen là đưa ra một chương trình hành động cho người đọc đang sống trong các chế độ độc tài. Những luận điểm chính của Sen là:

- kinh tế thi trường là phương cách tốt nhất để phát triển kinh tế 

- tự do báo chí là nền tảng để thực thi dân chủ

- chấp nhận tranh luận công khai các dị biệt để thuyết phục và đồng thuận là phương tiện để đạt được công bình xã hội.

Sen thú nhận đây là một tham vọng khó thực hiện trên toàn thế giới. Người Việt có thể thất vọng vì Sen không đề cập đến tinh thần dân chủ của hội nghị Diên Hồng và nạn đói năm Ất Dậu trong lịch sử Việt Nam cũng như tình trạng báo chínhân quyềnViệt Nam hiện tại, nhưng hy vọng phương cách của Sen là nguồn cảm hứng bố ích và trở thành một thông điệp thời đại giúp cho những người đang tha thiết muốn đóng góp cho Việt Nam hôm nay và mai sau được công bình và dân chủ hơn.

The Idea of Justice, Amartya Sen, ISBN: 978-0-141-03785-1, Penguin Books, 2010.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 103)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 132)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 142)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 152)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 182)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 231)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 218)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 230)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 223)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 262)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 247)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 210)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 157)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 186)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 208)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 294)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 306)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 386)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 360)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 341)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 349)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 608)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 575)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 849)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 446)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 681)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 500)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 485)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 386)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 505)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 465)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 651)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 448)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 852)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 574)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 579)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 969)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 681)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 575)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 873)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 545)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 677)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 650)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 625)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 641)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 640)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 534)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 709)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1019)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1198)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant