Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mùa Hoa Nở

08 Tháng Mười 201000:00(Xem: 12804)
Mùa Hoa Nở

Mỗi năm có bốn mùa và mỗi mùa có ba tháng. Thời gian được chia ra như thế thật rõ ràng ở các châu Úc, châu Âu và châu Mỹ. Riêng châu Á và châu Phi, thời gian ít được định vị rõ ràng và nhiều người cho rằng tại hai châu lục này chỉ có hai mùa. Đó là mùa nắng hạn và mùa mưa rào.

Tại các xứ lạnh, thời tiết phân chia ra mùa và năm tháng tương đối dễ phân biệt. Khi xuân đến thì hoa đua khoe sắc thắm; hè sang với những tia nắng chói chang báo hiệu cho bầu trời trong xanh và cao rộng hơn. Thu sang với lá vàng rơi lả tả làm đậm nét của thơ và đông sang cây cỏ chỉ còn cành, trơ trụi lá. Thế là một mùa tuyết giá đã phủ đầy ngàn cây, nội cỏ và ngay cả những tâm hồn đang nao nức, cũng bị băng giá làm đông lạnh; trong suốt ba tháng chẳng có mặt trời.

Thế nhưng mùa nào cũng có những loài hoa biểu trưng cho mỗi mùa trong suốt một năm như thế. Ngày xưa tại Á Đông chúng ta, thường được nghe kể lại rằng: “Xuân lan, Thu cúc, Hạ trúc, Đông mai”. Nghĩa là khi mùa xuân đến thì hoa lan nở. Mùa thu sang, cúc vàng khoe sắc thắm. Mùa hè tuy oi bức nhưng hoa lựu và trúc cũng nở hoa và mùa đông tuy lạnh giá như vậy nhưng những cành mai vàng cũng chờ ngày đơm hoa kết nụ.

Chữ Hán viết theo lối tượng hình; nên chữ Hoa () được viết thành ba bộ và ghép liền vào nhau. Đầu tiên là bộ thảo () tượng trưng cho cây, cỏ và muôn vật từ đất phát sinh. Bộ bên trái là một nhân đứng (); nghĩa là nơi ấy có sự hiện diện của con người. Bộ thứ ba bên phải là bộ chủy (); nghĩa là sự cứng cỏi và bình an. Nếu ghép hai bộ nhân đứng () và bộ chủy () lại, sẽ thành chữ hóa (). Hóa đây là sự biến hóa của đất trời, cỏ cây, muông thú. Sự hóa thân của chư Bồ Tát và chư Phật để vào cõi đời nầy, nhằm cứu khổ, độ mê cũng dùng đến chữ hóa nầy. Rồi giáo hóa hay hóa độ cũng nằm trong khuôn khổ ấy. Ý nói giữa con người và sự tiếp cận với đất trời trong cuộc sống bình an, được thể hiện qua chữ hóa kỳ diệu nầy. Nếu ghép chung cả ba bộ lại, thì ta sẽ được chữ Hoa (). Vậy hoa là gì? Hoa là một loài cây cỏ sinh sống tự nhiên, lại có thêm sự hiện hữu của con người trong cõi thế, giúp cho loài thảo mộc này trụ lại ở đời, nên được gọi là hoa. Dĩ nhiên còn nhiều lối định nghĩa khác nữa, nhưng theo lối định nghĩa ngày xưa là vậy. Theo nay, ta có thể nói: hoa là loài cây có bông, mang nét đẹp tự nhiên và làm đẹp cho con người cũng như cảnh trí.

Mùa hoa Anh Đào ở Nhật thường nở rộ suốt trong một tuần lễ từ ngày 8 đến ngày 15 tháng 4 dương lịch mỗi năm. Ngày ấy người Nhật tổ chức lễ Phật Đản Sanh; được gọi là Hanamatsuri (mùa lễ của hoa). Đúng ngày 14 hay 15 tháng 4, người Nhật hay quây quần dưới những gốc hoa Anh Đào đang nở rộ để uống rượu, ngắm trăng và xem hoa. Họ ca hát, nhảy múa, ăn uống thỏa thê như là những ngày hội của một dân tộc. Hoa Anh Đào ngày nay không những chỉ có mặt tại Nhật Bản mà còn hiện diện tại Washington D.C. Hoa Kỳ hay Đà Lạt Việt Nam. Vùng nào có khí hậu ôn đới thì hoa Anh Đào thường nở hoa vào tháng tư. Còn nhiều nơi nhiệt đới, hoa Anh Đào hầu như không tồn tại. Những cánh hoa Anh Đào rất mỏng và thường có màu hồng, khi ra hoa không một lá nào xen kẻ. Khi hoa nở xong, lá mới đâm chồi từ cành cây. Đây cũng là một biểu hiện đặc biệt của loài hoa vương giả nầy. Sau một mùa đông lạnh buốt, khi ánh thái dương của mùa xuân ấp áp tràn ngập đó đây thì hoa Anh Đào xuất hiện.

Dĩ nhiên là còn rất nhiều loài hoa khác cũng nở vào mùa nầy nữa. Có nhiều loài hoa sang trọng, cao sang như hoa Mộc liên. Tiếng Nhật gọi là Mokuren no hana. Hoa này là hoa sen được mọc trên đất liền, không cần bùn và nước. Khi nở cho nụ màu tim tím. Đôi khi một năm nở cả hai lần và đặc biệt cũng chỉ ở những xứ lạnh mới có loại hoa nầy. Ngoài ra, hoa mai của Việt Nam chúng ta nở vào mùa Tết Nguyên Đán; người yêu thích hoa, nâng niu hoa như là một biểu hiệu cao cả trong gia đình. Còn loài hoa mai của các xứ lạnh, nở tự nhiên ngoài đường phố hay trong rừng sâu. Cũng màu vàng ấy; nhưng không là loài hoa vương giả như tại các nước Á Châu mình hay trân quý.

Hoa Tulip tại Hòa Lan hay hoa Cẩm Chướng v.v… là những loài hoa bình dị; nhưng khi nở lại thuận theo đất trời; nhất là sau một mùa đông giá buốt, tuyết băng… hoa Tulip đã mọc lên và trổ hoa thật đẹp, như là sự báo hiệu của một mùa xuân nắng ấm đang đợi chờ trước mắt những du khách từ phương xa đến đây để xem những ngày lễ hội của hoa. Hoa Tulip bạt ngàn đủ màu, đủ sắc, đủ loại, đủ giống khó thể hình dung và nắm bắt hết được những vẻ đẹp nên thơ, chỉ có rừng hoa Tulip và hoa Cẩm Chướng mang lại cho con người. Ai dầu cho khó tính đến đâu cũng không thể chê hoa, dầu cho đó là loài hoa nào đi chăng nữa. Ít ra, hoa cũng mang đến được một sự bình an nho nhỏ nào đó cho con người, khi hoa đã thể hiện trọn vẹn nhiệm vụ của mình, là cống hiến cho đời những gì tươi đẹp mà hoa có thể mang lại.

Hoa ngày nay nở trái mùa rất nhiều. Vì lẽ người ta có thể bắt hoa nở tùy ý theo sở thích của con người qua sự lai giống hay thuốc hóa học. Nghĩa là mùa nào cũng có thể ngắm nhìn hay mua sắm những loài hoa mình thích. Cuối triều nhà Thanh bên Trung Quốc, có bà Từ Hy Thái Hậu đã bắt hoa cúc phải nở theo ý mình và cá phải chìm nổi theo cái nhìn ngắm của bà. Ngày nay sau mấy trăm năm lịch sử, nếu ai đó có đến Di Hòa Cung tại Bắc Kinh đều còn được nghe kể lại những sự tích nầy.

Những người con gái ở trong cung vua ngày xưa; hoặc những mệnh phụ phu nhân, được gọi là: “kim chi, ngọc diệp”; nghĩa là: “cành vàng, lá ngọc”. Cành ấy chỉ chọn những con chim cao quý mới được đậu vào đó và lá kia chỉ được tiếp xúc với những bậc vương tôn, công tử và không là những kẻ dân giả hay hạ tiện bình dân.

Còn nhà Phật vẫn trân trọng những bông hoa tuệ giác; nên Mãn Giác Thiền Sư đời nhà Lý đã có hai câu thơ rằng:

“Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”

Nghĩa:

“Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một cành mai”

Hoa ấy là hoa tâm; hoa ấy là hoa Phật và hoa ấy chỉ nở khi tâm người đã tỏ ngộ. Dẫu cho xuân đã qua rồi, hay mùa đông giá băng đang đến, hoa mai kia vẫn nở rộ nơi lòng người con Phật đã giác ngộ.

Một vị Thiền Sư người Nhật ở thế kỷ thứ 13 có bài Haiku như sau:

“Ki no naka ni hana ga aru

Ishi no naha ni hi ga aru”

Nghĩa:

“Trong cây có hoa

Trong đá có lửa”

Hoa từ trong lòng đất; hoa từ trong tâm thức; hoa có sẳn trong thân cây, cũng như lửa có sẳn trong đá. Nhưng hoa chỉ nở khi nào có khí trời ấm áp và lửa chỉ hiện ra khi nào có sự cọ xát bởi đá. Tâm ta cũng như vậy, Phật tính chỉ hiển lộ khi con người có sự dụng côngmiệt mài với công án. Ngoài cây không có hoa, ngoài đá không có lửa; ngoài tâm nầy không có Phật tánh và ngoài Phật tánh không phải chỉ tồn tại nơi thân. Thân và tâm tuy hai mà một; tuy một mà hai. Nghĩa là ngoài cái thân nầy không có cái kia và ngoài cái kia không có cái nầy.

Tôi đến Hoa Kỳ từ Đức lần đầu tiên vào năm 1979 và cho đến nay (2010) cũng hơn 31 năm Xuân qua Đông lại rồi. Mỗi năm như thế ít nhấtmột lần đi Mỹ và nhiều khi có cả 3 hay 4 lần. Như vậy trung bình trong hơn 30 năm qua, tôi đã có 50 hay 60 lần đến xứ này. Phải thành thật mà nói rằng: không đâu đẹp bằng Mỹ, không đâu to lớn và giàu sang, văn minh như Mỹ. Tuy nhiên đời sống tại đây lại bận rộn vô cùng. Do vậy tôi đã không chọn nơi đây làm quê hương thứ hai sau nhiều lần qua lại là vậy. Âu Châu; nơi dễ sống và dễ tu, đối với người ở mọi mức độ trung bình. Úc Châu có một chân trời cao rộng và thoáng mát; nhưng thiếu nước về mùa hè. Phi Châu quá nóng bức, Á Châu quá già nua, cằn cỗi. Cho nên tôi vẫn thường hay nói rằng: “xứ Hoa Kỳ chỉ để giành cho những người giỏi và giàu có”. Ai mà không có khả năng thì không nên ở xứ Mỹ. Vì vòng quay của xứ Hoa Kỳ nhanh lắm; không khéo thì người ta sẽ bị quay ra ngoài cuộc sống. Ngay cả người xuất gia cũng vậy. Xứ này đặc biệt; cho nên mọi thứ cũng đặc biệt. Điều ấy hẳn là thế; nếu ai đó đã đến xứ nầy rồi sẽ rõ.

Trong hơn 30 năm ấy, tôi đã có nhân duyên đến Hoa Kỳ này bằng nhiều thời điểm và nhiều vùng khác nhau. Có nghĩa là các mùa xuân, hạ, thu, đông v.v… tôi đã trải qua nhiều lần như thế. Mỗi nơi lại có một vẻ đẹp khác nhau. Mỗi chỗ lại có một quan niệm sống khác nhau. Do vậy, cái nầy hay cái kia, nó cũng chỉ là một sự đối đãi, chứ không là sự tuyệt đối, dưới cái nhìn tương đối của con người.

Tôi viết văn và dịch sách; nên phải đi nhiều nơi mới có nhiều ý tứ để viết. Nhiều khi đi chỉ để mà đi; đến chỉ để mà đến! vì đến hay đi đối với tôi không còn là chỗ ưa thích nữa, mà là bổn phận và trách nhiệm mà thôi.

Gần 6 năm nay chúng tôi đi thành đoàn thể. Có thể gọi là Đoàn Hoằng Pháp lưu động đến từ Âu, Úc và Mỹ châu. Mỗi lần như thế đi cả 10 hay 12 thầy cô và mỗi nơi được chọn, ở lại trong vòng một tuần lễ. Các khóa tu học Phật pháp thường được tổ chức vào cuối tuần và đôi khi cả trong tuần nữa. Chúng tôi thay phiên nhau giảng cũng như tụng kinh, tu tập và hội thảo, giải đáp thắc mắc v.v… Đa phần chúng tôi đi dọc theo biên giới miền Đông, miền Tây và miền Trung Hoa Kỳ. Mỗi lần đi như vậy từ 6 đến 8 tuần lễ. Dĩ nhiên ở tại Hoa Kỳ không thiếu những Thầy, Cô giỏi, có thể hướng dẫn giáo lý và sự tu học cho Phật tử; nhưng Phật Phápnhân duyên, khó nói hết. Vả lại, chư Tổ ngày xưa vẫn thường dạy rằng:

“Hoằng pháp thị gia vụ

Lợi sanh vi sự nghiệp”

Nghĩa:

“Hoằng pháp là việc nhà

Lợi sanh là sự nghiệp”

Sự nghiệp của người xuất gia không phải ở chổ chùa to Phật lớn hay đệ tử nhiều v.v… mà là ở chổ làm lợi lạc gì được cho quần sanh, mới là điều đáng kể. So với loài hoa vô tư vô giác kia, còn mang lại được hương thơm cho Đời cho Đạo. Còn con người há lại chẳng đóng góp được một chút gì cho sự hưng thịnh của Phật Pháp sao?

Đời sống của người xuất gia như người xưa thường bảo:

“Nhứt bát thiên gia phạn

Cô thân vạn lý du

Kỳ vi sanh tử sự

Thuyết pháp độ xuân thu”

Nghĩa:

“Một bát, cơm ngàn nhà

Một thân, muôn dặm xa

Chỉ vì sự sanh tử

Thuyết pháp độ người qua”

Chỉ chừng ấy cũng đầy đủ cho mục đích sống của một người xuất gia, sống đời phạm hạnh rồi. Sống thong thả tự do, không bị ràng buộc bởi tình riêng, nợ chung; không bị thế quyền, danh lợi, thị phi, nhân nghĩa chi phối… Cho nên người xuất gia có một chân trời cao rộng; không bị một hoàn cảnh, một điều luật nào ép buộc cả. Ta đến nơi đây bằng hai bàn tay trắng thì khi ra đi tất cả cũng phải để lại cho đời. Nếu có chăng là bóng hình thoạt ẩn, thoạt hiện mà thôi; giống như Hương Hải Thiền Sư đã nói:

“Nhạn quá trường không

Ảnh trầm hàn thủy

Nhạn vô lưu tích chi ý

Thủy vô lưu ảnh chi tâm”

Nghĩa:

“Vết nhạn bay qua

Ảnh chìm dưới nước

Nhạn không có ý lưu dấu vết

Nước không có tâm giữ lại ảnh kia”

Tất cả đều vô tâm, như sự đến và sự đi trên quả địa cầu nầy vậy. Tôi không biết rằng phái đoàn chúng tôi còn đi hay phải đi trong bao lần như thế nữa; nhưng nếu có đến hay có đi cũng như giòng suối thời gian trôi mãi không ngừng và chưa hề có ý quay trở lại để tìm dấu vết năm xưa.

Hơn 25 năm trước, tôi đã đến thành phố Chicago nầy và chùa Quang Minh hồi ấy chỉ là một mái nhà bằng gỗ tạm bợ. Đêm về nghe mưa rơi, chuột cống bò lên tận giường nằm để gặm chân khách phương xa mới đến. Chùa ngày ấy nằm ở trong khu ổ chuột; sau này được cúng dường cho cố Hòa Thượng Thích Đức Niệm, Giám Đốc Phật Học Viện Quốc Tế và quý đệ tử của Ngài như Thầy Minh Huệ, Thầy Minh Chí và Thầy Minh Hạnh sau đó quý Thầy nầy đã di dời về tạo mãi và địa chỉ trong hiện tại. Từ chùa Quang Minh đã phát sinh thêm 3 chùa nữa tại vùng nầy. Đó là chùa Trúc Lâm, chùa Phật Bảo và chùa Quan Âm. Tôi cũng có nhân duyên đối với chùa Phật Bảo một thời gian; nhưng sau này thiếu duyên lại thôi. Đúng như pháp mà Ngài A Thuyết Thị gặp Ngài Xá Lợi Phất lần đầu tiên đã nói:

“Tất cả các pháp đều do nhân duyên sanh

Tất cả các pháp đều do nhân duyên diệt

tự tánh của các pháp là không”

Đúng là như vậy. Trước sau cũng sẽ trở về không. Cho nên hãy đừng vui khi được kẻ khác khen tặng và hãy đừng buồn khi bị người khác chê bai. Việc ấy là lẽ thường tình trong cuộc sống, có gì đâu để buồn, mà có gì đâu để vui.

Nhớ lại những năm 1979, lần đầu tiên đến Hoa Kỳ, tôi có ghé thăm cố Hoà Thượng Thích Thiên Ân tại Los Angeles. Ngài có thể nói là vị Tổ khai sơn của Phật giáo Viện Nam tại Hoa Kỳ. Tiến sĩ đại học Waseda Nhật Bản và Viện trưởng Viện đại học Đông Phương (Oriental University); nhưng đến năm 1980 Ngài không còn nữa. Sau đó, cố Hoà Thượng Thích Mãn Giác kế thế trụ trì Chùa Việt Nam tại Los Angeles; nhưng cách đây 3 năm Ngài cũng đã cởi Hạc Tây quy; đúng như bút hiệu Huyền Không của Ngài. Nếu còn chăng nữa thì chỉ còn:

“Mái chùa che chở hồn dân tộc

Nếp sống muôn đời của Tổ Tông”

Chùa Trúc Lâm tại Chicago cũng được hình thành trong nhân duyênhoàn cảnh như vậy. Bây giờ do Thượng Toạ Thích Hạnh Tuấn trụ trì. Thầy là người có học cao, hiểu rộng và hơn 20 năm đã miệt mài đèn sách tại các đại học lớn ở Hoa Kỳ như: Đại học San Francisco, Havard và Berkeley trong các chương trình BA, M.T.S. và Ph.D. Trước đây 25 năm khi Thầy ấy còn ở tạm trú trong trại tỵ nạn Pulau Bidong ở Indonesia có thư đến Đức thăm tôi và hỏi rằng: đến Hoa Kỳ tỵ nạn thì nên ở chùa nào? Thuở ấy tôi thấy chỉ có Hoà Thượng Thích Tịnh Từ ở chùa Từ Quang tại San Francisco là có thể được. Vì Thầy ấy đi du học đến Mỹ từ Việt Nam hồi năm 1974 và có cái nhìn khác hơn nhiều Thầy khác cho tương lai của Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ. Do đó sau khi thầy Hạnh Tuấn đến chùa Giác Minh của Hoà Thượng Thích Thanh Cát tại Palo Alto tạm trú một thời gian thì đến nương Hoà Thượng Thích Tịnh Từ từ mấy chục năm qua và sau khi chùa Trúc Lâm hình thành, Thầy Tịnh Từ đã cử Thầy Hạnh Tuấn về đây trụ trìnguyên nhân cuả sự việc.

Cố Hòa Thượng Thích Như Vạn là Bổn sư của Thượng Tọa Thích Hạnh Tuấn, trụ trì Tổ đình Phước Lâm tại Hội An; nơi mà tôi đã xuất gialàm thị giả cho Ngài từ năm 1964 đến 1966. Nơi đây còn lại trong tôi không biết bao nhiêu là kỷ niệm. Tổ đình này do Ngài Thiệt Dinh, đệ tử Tổ Sư Minh Hải khai sơn vào đầu thế kỷ thứ 18. Đến đầu thế kỷ thứ 20, sau 200 năm truyền thừa; lúc cố Đại lão Hòa Thượng Thích Vĩnh Gia làm trú trì ở đây có nhiều Giới đàn được mở tại Tổ Đình nầy. Đức Đệ nhất Tăng Thống GHPGVNTN Cố Đại lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết và Đức Đệ nhị Tăng Thống, Cố Đại lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên đều thọ giới Cụ túc tại chùa Phước Lâm nầy. Và các Ngài đã đắc giới với Cố Đại lão Hòa Thượng Thích Vĩnh Gia. So về Tông môn Pháp phái thì tôi với Thầy Hạnh Tuấn rất gần gũi; cho nên mỗi lần tổ chức những lễ lộc gì lớn tại Đức tôi đều mời Thầy ấy sang.

Lần hoằng pháp nầy, phái đoàn chúng tôi đến Chùa Trúc Lâm gồm có quý Thầy như: TT Thích Minh Dung trụ trì chùa Quang Thiện tại California, TT Thích Thông Triết trụ trì Thiền viện Chánh Pháp tại Oklahoma, TT Thích Nguyên Tạng phó trụ trì Tu viện Quảng Đức, Melbourne Úc, Đại đức Thích Hạnh Đức trụ trì Chùa Phật Ân, Minnesota, Đại đức Thích Thánh Trí Tu viện Bửu Hưng, Portland, Đại đức Thích Thiện Đạo Tri sự chùa Phật Tổ, Long Beach, Đại đức Thích Hạnh Tuệ chùa Phật Đà, San Diego và dĩ nhiên sau tuần lễ tu học tại đây Thượng tọa Thích Hạnh Tuấn cũng sẽ cùng đi chung với đoàn để đến những nơi khác tại Hoa Kỳ nữa. Trên đường đi sẽ có thêm Ni Sư Minh Huệ tháp tùng.

Phái đoàn đến Chicago lần nầy phụ trách giáo lý căn bản Bậc Kiên cho Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại vùng Midwest nầy. Đã có hơn 100 anh chị em huynh trưởng và đoàn sinh cùng quý đạo hữu về Chùa Trúc Lâm để tham gia khóa huấn luyện và tu học, thi cử nầy. Ngoài ra các đạo hữu lớn tuổi từ chùa Phật Ân ở Minesota cũng đã tham gia cùng với Khóa học giáo lý đặc biệt nầy. Đây là mầm non của dân tộc và đạo pháp. Đây là những đóa hoa mùa xuân vừa hé nụ để đi vào cấp Tập của huynh trưởng, để sẽ dần nở hoa qua các bậc Kiên, Trì, Định, Lực của cấp Tập, Tín, Tấn và Dũng về sau này.

Giáo dục là một vấn đề nhân bản của con người. Con người ở bất cứ một xã hội nào mà thiếu giáo dục ở nhiều phương diện, thì con người ấy không làm được ích lợi gì cho xã hội mai sau. Thời gian của giáo dục không hạn định, nhưng Gia Đình Phật Tử Việt Nam, những đứa con cưng của Giáo Hội đã chọn cho mình một hướng đi xứng đáng khi hướng về tương lai với nhiều sự thử tháchcám dỗ của cuộc đời. Những màu lam ấy đã mang lại sự tin yêu cho cuộc sống, đã phủ lên những tâm hồn non trẻ một chất liệu dưỡng sinh cho tâm linh ở bây giờ và mai hậu.

Giáo dục cũng là chiếc cầu nối từng thế hệ, từ quá khứ đến hiện tại và từ hiện tại sẽ tiếp tục bắt tới cho tương laiHạnh. Nếu khôngquá khứ thì hiện tại sẽ không có và dĩ nhiên là tương lai sẽ mờ mịt. Nhưng nếu nhịp cầu quá khứ bắt thẳng qua tương lai mà không lưu tâm đến hiện tại, thì sẽ lỡ một nhịp cầu. Vì lẽ tre già thì măng phải mọc. Chứ tre không thể là tre mãi và măng phải trưởng thành; chứ măng quyết không thể chỉ là măng non trong muôn thuở.

Từ Oanh vũ đến ngành Thiếu rồi ngành Thanh các em Gia Đình Phật Tử đã ý thức được điều ấy. Đến khi có trách nhiệm cầm đoàn qua các cương vị như Đội trưởng, Đoàn trưởng, Liên đoàn trưởng v.v… thì các em lại còn có trách nhiệm với các bậc đàn em của mình nhiều hơn nữa.

Trong thế giới của Phật giáo, cách riêng chỉ có Việt Nam là có Gia đình Phật tử. Điều này phải niệm giữ thâm ân nơi người sáng lập. Đó là cố Bác sĩ Tâm Minh – Lê Đình Thám. Vào thời điểm hơn 70 năm trước, nếu không có những con người có đầu óc tiến bộ, muốn canh tân Phật giáo Việt Nam, trong đó có tuổi trẻ Phật giáo, thì Gia Đình Phật Tử không có mặt ngày nay với hơn 300.000 đoàn sinh ở trong và ngoài nước như thế nầy. Đây là những bông hoa đầy màu sắc đang nở rộ trong vườn hoa tâm linh của Dân tộc và Đạo pháp vậy.

Mỗi khi có dịp thuyết trình tại các diễn đàn nói tiếng Anh, tiếng Pháp, hay tiếng Đức, tôi đều trình bày với thính chúng địa phương rằng: “Quý vị lâu nay đã sống với vườn hoa tâm linh do Thiên Chúa mang đến. Hôm nay chúng tôi mang thêm những bông hoa mới của Phật giáo từ Á Đông đến để trồng vào vườn hoa tâm linh của quý vị. Quý vị đừng lo ngại, vì nếu trong vườn hoa kia, nở thêm nhiều màu sắc thì ngôi vườn kia sẽ trở nên đẹp đẽ hơn. Có lẻ quý vị không chối từ việc nầy”. Dĩ nhiên là ai ai cũng đáp lại bằng nụ cười; nhưng trong thâm tâm của họ chắc không có gì lo ngại lắm về những tư tưởng của Đạo Phật và những bông hoa giác ngộ đem đến từ những xứ Á châu xa lạ kia.

Hôm nay từ ngày 16 đến ngày 18 tháng 4 năm 2010 tại chánh điện và vườn chùa Trúc Lâm Chicago đã nở ra hơn 100 đóa hoa của Gia Đình Phật Tử và quý đạo hữu như thế. Mỗi hoa có 5 cánh và hoa đời hoa đạo ấy sẽ tiếp tục mang hương sắc nhiều màu vào trong các cõi nhân sinh để tưới tẩm và gội nhuần những tâm hồn biết hướng thượng như vậy.

Bước chân của chúng tôi đã đặt lên trên mặt đất gần Ngũ đại hồ và Chicago, Michigan hay những vùng lân cận đó; nơi những giòng nước ngọt tràn đầy lai láng như mặt biển của đại dương. Bên cạnh những bờ hồ cũng có nhiều người đang ngồi câu thời vận và chờ cho những đóa hoa ven bờ nở rộ, để họ tận hưởng được một mùa xuân thật tràn đầy ý nghĩa, khi mọi nhu cầu về sự sinh tồn của con người được đáp trả lại chăng!

Trên đường Wilson nằm trước mặt chùa Trúc Lâm nầy có rất nhiều cây cao đã đâm chồi nẩy lộc. Nhìn những nụ xanh bụ bẩm như thầm bảo cho ta biết rằng: xuân đã đến rồi đây! . Cây nầy kế tiếp cây kia như thầm bảo nhau rằng: trước mắt là những điều hứa hẹn. Vì không khí mùa xuân đã ấm áp và bên kia đường, những loài hoa dại cũng đang khoe sắc màu với chúng ta, đâu có ngại ngùng gì với sương gió màn đêm. Nơi đây là tất cả. Vì bên cạnh đường cái nầy, còn biết bao nhiêu con đường dẫn đến tâm linh, mà những cánh hoa kia đã vô tình hay cố ý nở rộ trong lòng người tại đất Chicago nầy.

Viết để tưởng niệm những ngày tháng đã qua, để nhớ về những bậc Thầy ở một thuở xa xôi trong quá khứ. Viết để tri ânhồi tưởng những pháp lữ đã giúp cho tôi có đầy đủ nghị lực trong cuộc hành trình và nhất là cho những mầm non, những đóa hoa đang nở đúng mùa của Gia Đình Phật Tử Việt Nam đang học giáo lý bậc Kiên vào những ngày tháng cuối tháng 4 năm 2010 để sang năm 2011 cũng vào cuối tháng 4 như thế nầy phái đoàn lại đến đây một lần nữa và lúc ấy Phật Ngọc đi vòng quanh thế giới sẽ về đây, trước khi sang Âu Châu, để cho những đóa hoa lòng có cơ hội nở thêm một mùa xuân nữa nhằm đón mừng sự thị hiện nhiệm mầu của chư Phật mười phương.

Viết để tặng cho Gia Đình Phật Tử vùng Midwest- Chicago tháng 4 năm 2010.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10701)
Đức Thế Tôn bảo “bình an thật sự” không cách xa, nó đang ở bên trong chúng ta, nhưng chúng ta thường không nhận ra nó.
(Xem: 8876)
Tất cả mọi loài sống là để đi tìm hạnh phúc. Bản năng gốc của mọi loài là tìm kiếm hạnh phúc.
(Xem: 10035)
Theo lời Phật dạy, chuyển một cái xấu – ở đây là gian dối- trở thành cái tốt, tức chân thật, là chuyển nghiệp. Nhưng chuyển nghiệp như thế nào đây?
(Xem: 9968)
Trong lộ trình nương tựa nhau để tu học, mỗi người cần nhanh chóng nhận ra ai là thiện tri thức để thân gần và ai là ác tri thức để tránh xa.
(Xem: 9124)
Đã làm người và được sống, bất cứ ai cũng đều có cảm giác khoái lạc hay khổ đau. Cảm giác có thể sảng khoái hay dễ chịu hoặc không nằm trong hai điều đó.
(Xem: 10794)
Tất cả các pháp hữu vivô thường. Đây chính là lời dạy của đức Phật và được Ngài lập lại nhiều lần. Lời dạy này cũng là một trong những lời di huấn cuối cùng của Ngài.
(Xem: 14811)
Tuổi trẻ không tu, già hối hận, Thân bệnh tật, tai điếc mắt mờ, Gối mỏi lưng còng, giờ suy yếu, Cuộc đời gây tạo, bao ác nghiệp
(Xem: 11562)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựngvô cùng mạnh mẽ
(Xem: 9949)
Sống đồng nghĩa với hành trình, hành trình với hành trang và phương tiện chính mình, hành trình đến những mục đích.
(Xem: 12444)
Câu ‘Tâm bình thường là Đạo’ phát sinh từ câu chuyện ngài Triệu Châu đến hỏi đạo ngài Nam Tuyền. Ngài Triệu Châu hỏi: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp “Tâm bình thường là đạo”
(Xem: 10666)
Khi trong đầu hiện ra tình cảm về ‘Tôi’, nhiều tế bào trong nhiều vùng khác nhau của não bộ trở nên năng động cùng một lúc và làm dao động hàng ngàn các tế bào não khác.
(Xem: 10173)
Kinh sách Phật Giáo thường so sánh Đức Phật như một vị Lương Y. Điều này hiển nhiên cho thấy việc chữa trị bệnh tật là tâm điểm của Phật giáo.
(Xem: 10513)
Có nhiều người nhận lầm học Phật, hiểu đôi điều về giáo lý Đức Phật là tu rồi, đây là một sai lầm lớn trong nhận thức, vì tu và học là hai phạm trù khác nhau.
(Xem: 10443)
Theo thuyết nhà Phật, có duyên mới tạo ra nghiệp, trả nghiệp sẽ có duyên cao hơn, cứ theo thế mà thoát ra khỏi luân hồi.
(Xem: 10311)
Mỗi ác nghiệp là tờ giấy nợ Trả hiện tại hoặc trong tương lai Vay nhiều thì nợ càng nhiều Nhân quả theo ta như hình với bóng
(Xem: 9849)
Thời gian qua nhanh, tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già, cái chết sẽ đến, không biết về đâu?
(Xem: 9083)
Hạnh nguyện độ sinh của Bồ tát Quán Thế Âm trong cõi Ta Bà giúp cho tất cả mọi người “quán chiếu cuộc đời” để đạt được giác ngộ, giải thoát.
(Xem: 9161)
Cuộc sống viên mãn của con người cần hội đủ hai phương diện vật chấttinh thần (tâm linh). Chúng phải song hành tồn tại nhằm hỗ tương lẫn nhau, giúp con người thăng hoa cuộc sống.
(Xem: 11023)
Với hành nguyện lắng nghe tiếng khổ, để đem niềm vui xoa dịu cho chúng hữu tình nơi thế giới hành đạo của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Chúng con, trên bước đường tìm cầu sự giác ngộ, cũng xin được học đòi đức tính thù diệu ấy.
(Xem: 9384)
Lòng tham con người như giếng sâu không đáy không bao giờ biết chán, biết đủ, biết dừng. Người có quyền cao chức trọng thì lợi dụng chèn ép, bóc lột kẻ dưới.
(Xem: 12872)
Bài này để nói thêm về tương quan giữa Phật học và nghệ thuật – các bộ môn như âm nhạc, thi ca, hội hoạ, tiểu thuyết, kịch, phim …
(Xem: 12389)
Ai cũng thích được tán dương, khen ngợi, ai cũng thấy dễ chịu với những lời khen, dù bản thân không đúng hoặc đúng rất ít với lời khen đó.
(Xem: 8948)
Khi được khen ta cũng chớ vội mừng và khi bị chê ta cũng chớ vội buồn. Nếu ta vội mừng hay buồn như vậy thì tâm mình rất dễ bị dao động, khi bị dao động ta sẽ bất an.
(Xem: 9363)
Từ Thứ Năm tới Thứ Hai, ngày 6 tới 10 tháng 8 năm 2015, Khóa Tu Học Phật Pháp Bắc Mỹ Lần Thứ 5 sẽ diễn ra tại Khách Sạn Town and Country Resort Hotel, Thành Phố San Diego
(Xem: 9448)
Thiền sư xuống núi. Một túi vải đơn sơ với y áo và dăm cuốn kinh đã lật nhăn cả giấy...
(Xem: 9326)
Ý nghĩa tích cực của giải thoát là sống ràng buộc giữa các mối quan hệ nhưng ta có tự dotự tại.
(Xem: 8914)
Sân hậnthù oán là hai trong số những người bạn gần gũi nhất của chúng ta. Khi còn trẻ, tôi đã có một mối quan hệ rất gần gũi với giận dữ.
(Xem: 8756)
Bồ-tát Quán Thế Âm luôn hiện thân trong mọi trường hợp để tùy duyên giúp đỡ, cứu khổ cho người. Đã làm người trong trời đất, ai không một lần lầm lỗi, vấp ngã, khổ đau.
(Xem: 10073)
Giảng Pháp và thính Pháp là những Pháp sự không thể thiếu trong chương trình tu học của các tự viện đúng nghĩa.
(Xem: 8414)
Nguyên tác: The Five Trainings for Bodhichitta Resolve, Tác giả: Alexander Berzin/ Moscow, Russia; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 8081)
Khi những hiện tượng được phân tích một cách riêng lẻ như vô ngã, và những gì đã từng được phân tích trên thiền quán, đấy là nguyên nhân cho việc đạt đến hoa trái, niết bàn.
(Xem: 15224)
Đức Phật có dạy đừng tìm về quá khứ, vì quá khứ đã qua rồi, đừng tìm về tương lai, vì tương lai chưa tới, hãy an trú trong hiện tại.
(Xem: 10510)
Những câu chuyện thật chốn Thiền môn do các bậc trưỡng lão kể lại luôn luôn là những bài học hay nhất, là nguồn động lực lớn nhất cho các thế hệ mai sau noi gương ...
(Xem: 10551)
Đối với Thế Tôn sự sở hữu tài sản vật chất tiền bạc, ruộng vườn, nhà cửa…, chưa thật sự là người giàu có, sự giàu có đó vẫn nằm trong vòng lẩn quẩn của sự đau khổ, luân hồi chi phối.
(Xem: 8660)
Ai biết nỗ lực, siêng năng, tinh cần học hỏi, quyết chí vươn lên sống không ỷ lại nhờ vã người khác, thì người này nếu đầy đủ phước báu sẽ thành tựu trong nay mai.
(Xem: 8793)
Vì tự nguyện, cố nhiên họ hạnh phúc với chọn lựa của họ. Cơm ăn áo mặc không bận lòng. Ba y thô sơ, đắp đổi ngày tháng. Một bình bát dạo khắp muôn nhà.
(Xem: 8339)
Người đời khi gặp quả xấu đến, nếu không oán trời trách đất cũng đổ thừa tại gia đình người thân hay xã hội, ít ai nghĩ đến nhân quả công bằng mà sinh lòng ăn năn hối cải.
(Xem: 11850)
Theo tinh thần từ binhân bản của Phật giáo, người cư sĩ sau khi ly hôn hay người bạn đời chết đi thì có thể tái hôn bình thường.
(Xem: 10614)
Đức Phật bình đẳng giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán, không oán giận kẻ hại mình mà còn khoan dung độ lượng để họ cải tà quy chánh.
(Xem: 10382)
Ai tạo ác nghiệp thì sẽ bị đọa vào ba đường ác địa ngục, ngạ quỷsúc sinh. Nhất là tạo những nghiệp ác nặng nề thì chắc chắn sẽ rơi vào địa ngục.
(Xem: 13195)
Từ bi hỷ xả, nhẫn nhịn nhường là bí quyết để giúp cho mọi người sống như chiếc lá, dù có bị bão tố phong ba cuốn trôi lặn hụp, nhưng ta vẫn đủ sức vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời mà sống an nhiên tự tại trong mỗi hoàn cảnh.
(Xem: 8110)
Mỗi người sinh ra có một hoàn cảnh, sự sống hoàn toàn khác biệt nhau. Do sự chiêu cảm nghiệp báo quá khứ nên đời sống hiện tại của chúng ta có sự bất đồng trên mọi phương diện, không ai giống ai.
(Xem: 10063)
Cá ở trong lưới mà nhảy ra được, mới thật là hay. Vượt cạn lên bờ được mấy ai? Thoát khỏi cạm bẫy cuộc đời thật là khó vô cùng, nhưng người có ý chíquyết tâm cao độ sẽ làm được chuyện này.
(Xem: 8502)
Tâm giác ngộ là một thể trạng của tâm có nhiều thành phần với nó. Khi chúng ta phát tâm giác ngộ, nó có hai phương diện.
(Xem: 9606)
Chúng ta mỗi ngày quyết định không biết bao nhiêu việc và phần nhiều là những chuyện không quan trọng. Nhưng có đôi lúc, một quyết định nhỏ có thể ảnh hưởng không chỉ chính mình, mà còn...
(Xem: 10089)
Mọi người chúng ta đều than cuộc sống là đau khổ..., người nghèo có cái khổ của người nghèo, người khá giả có cái khổ của người khá giả.
(Xem: 9875)
Hãy dành ít thời gian suy nghĩ về bảy bí quyết này. Đừng gạt chúng qua một bên để làm chuyện khác, mà hãy áp dụng những bí quyết này vào cuộc sống của bạn.
(Xem: 8714)
Học để hoàn thiện chính mình là việc học suốt cả cuộc đời, chẳng thể nào được tốt nghiệp trọn vẹn, nếu ta không có đủ ý chínghị lực.
(Xem: 22191)
Nhân dáng từ bi của quý Ngài thường xuyên biểu hiện trong suốt 2 tuần qua đã biến ngôi già lam thanh tịnh này trở thành một ngôi thánh địa uy nghiêm bởi lời kinh tiếng kệ...
(Xem: 10124)
Đạo Phật có nhiều truyền thống cũng như vô lượng pháp môn tu. Nhưng dù tu theo bất cứ pháp môn nào, cách thức nào thì nội dung tu tập vẫn không ngoài Chỉ và Quán.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant