Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mẹ Hiền Quán Thế Âm

04 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15818)
Mẹ Hiền Quán Thế Âm

Kính lạy Mẹ hiền Quán Thế Âm,

Hôm nay con thầm xin mẹ hiền cho con được trở lại thời thơ ấu, được làm một em bé hồn nhiên; và nhất là để được ngây ngô bộc bạch tâm tình với Mẹ.

Chẳng biết tự bao giờ, con tự trao gởi thân con, cuộc đời con, sự sống con cho Mẹ. Con luôn như đứa trẻ ngã người vào lòng mẹ và con luôn thấy đúng lúc, đúng khi mẹ dang bàn tay từ ái đỡ lấy thân con, không để con ngã ngữa.

Chẳng hay tự thuở nào, mỗi buổi sáng mở mắt bỏ chân xuống đất tìm dép để đi là con gọi mẹ. Cất bước, bước chân đầu tiên trong ngày là con gọi mẹ. Vào bữa cơm ăn sáng, trưa, chiều tối, mỗi khi cầm đũa là con thưa mẹ. Khởi đầu bất cứ công việc chi trong ngày con cũng nhớ mẹ. Và rồi, bắt đầu buông thư vào giấc ngủ là con mơ màng nghe tiếng mẹ hát ru. “À ơi! Con ngủ cho ngon, trăm dâu ngàn biển vẫn tròn từ tâm”.

Có lúc, con ngớ ngẫn tự ăn năn rằng, lúc nào, làm gì, nhất cử nhất động, con cứ tên mẹ hiền mà gọi, như thế có khi nào mẹ bực con chăng? Mẹ có thấy bị quấy nhiểu bởi con chăng?

Sau nầy, khi lớn lên một chút, theo mẹ ruột của con, mỗi tối đi chùa, thỉnh thoảng được nghe quý thầy, quý sư cô, quý Phật tử tụng kinh Phổ Môn, con mới chợt thoang thoáng hiểu ra… Hiểu rằng, không phiền chi cả, con cứ gọi đi, con cứ gọi mẹ bất cứ lúc nào con nhớ đến mẹ; bởi vì mẹ là bà mẹ hiền luôn biết lắng nghe tiếng gọi của con, mẹ là bà mẹ có biệt tài THẤY từng tiếng gọi của con, tiếng con thưa mẹ, lời con nói với mẹ như có hình thù, dáng vóc cụ thể, như môi như mắt như xương như thịt. con tâm tình gì mẹ cũng nghe cũng thấy, chứ không như những phụ nữ người trần mắt thịt, lắm lúc con muốn tâm tình thốt thưa đôi chút, họ chả muốn nghe, thi thoảng có cả người vờ bịt cả tai, che cả mắt. Con “ngộ” ra một điều: có lẽ mẹ là một bà mẹ chịu khó nhất giữa cuộc đời nầy; và mẹ có một khả tính mầu nhiệm, mà người đời khó có, đó là vừa nghe được tiếng lại còn thấy cả hình thù của cái tiếng ấy nữa. Có lẽ vì vậy mà mẹ có tên gọi là Quán Thế Âm.

Có lần đứng trước sân chùa, một ngôi chùa nhỏ ở một vùng quê, chiêm ngưỡng hình tượng lộ thiên của mẹ, rưng rưng đôi mắt chí thành cung kính, tận đáy lòng con đã thốt nên lời tán thán: “Ở giữa trái tim con, trong ngần hình ảnh mẹ, trải bao nước bao non, giọt cam lồ mát mẻ”.

Mẹ ơi! Không đợi đến khi lâm vào “lửa dữ” khi bị “nước lớn cuốn trôi”… con mới gọi mẹ cầu cứu. Cũng không đợi khi ưng “được con trai vừa có phước đức vừa có trí tuệ” hoặc muốn “được con gái đoan chính, đẹp, có gốc rễ phước đức gieo trồng trong đời trước và được mọi người mến trọng” vân vân, khi ấy con mới gọi mẹ, thưa thốt, bộc bạch, cầu nguyện van xin. Dù con biết những việc ấy không trái với bản nguyện độ sanh của mẹ.

Con đã thực tập trong cuộc sống đời thường của con, cố gắng từng ngày từng đêm nhớ đến mẹ, càng nhiều càng tốt, bất cứ lúc nào, làm gì mà cũng nhớ đến mẹ “được” thì thật tuyệt vời làm sao.

Con thực tập nhớ mẹ như thế nên lúc nào, làm gì mà cũng nhớ đến mẹ “được” thì thật tuyệt vời làm sao.

Con thực tập nhớ mẹ như thế nên lúc nào con cũng thấy được mẹ chở che, con ít thấy “đói lòng” vì con luôn có cảm giác được uống những giọt nước ngọt nhiệm mầu từ đầu nhành dương liễu của mẹ. lên thác xuống ghềnh, đầu non cuối bể, những bước chân con đi như luôn luôn được mẹ dẫn dắt, tay mẹ nắm tay con; và con luôn vững lòng bước chân đi tới, không sợ lạc vào chốn ao tù hiểm nguy.

Kính lạy mẹ, nếu được bày tỏ nói lời tôn kính ngưỡng mộ mẹ, ngưỡng mộ mẹ hiền Quán Thế Âm, thú thực với mẹ, con hơi lúng túng, không biết nói lời sao cho “đúng”, cho “phải phép” cho “phải đạo”. Với con, đã là “tín ngưỡng” thì hình như “hơi khó” mà cũng chẳng cần phải “lý luận” nữa. Chẳng cần phải trả lời những câu hỏi “vì răng”, “tại sao”.

Ai lại đi đặt câu hỏi cho một bà mẹ, rằng vì sao mẹ phải cho con bú, mẹ phải mớm cho con ăn. Mẹ mớm cho con ăn là việc tự nhiên “đang làm” của mẹ. Mẹ cho con bú là việc đương nhiên của mẹ khi đôi môi khi con ngậm nuốm vú mẹ.

Với con, từ thẩm sâu tận đáy lòng, con vọng ngưỡng tôn thờ mẹ; con phó thác đời con vô điều kiện cho mẹ; con là đứa trẻ luôn ngã vào lòng mẹ và bao giờ cũng thế, đôi tay mầu nhiệm mẹ luôn đỡ lấy con.

Con tuyệt đối tin, từ sáng tới chiều, từ ngày đến đêm, dù sáng nay trời trong, chiều mai u ám đen kịt, dù đèo cao dốc thẳm, dù bảo táp mịt mùng, con tin vào hồng ân của mẹ che chở bảo bọc đời con, an toàn tuyệt đối. Vì thế từng bước chân con thanh thản vào đời, tâm con trong, hồn con sáng. Và ngôn ngữ loài người trong tâm thức con, tiếng gọi từ hiệu Quán Thế Âm, nhiểu nhiều lúc với con, nghe âm hưởng như tiếng gọi mẹ đầu đời trên đôi môi một đứa trẻ thơ.

Nam mô Đại từ Đại bi Quán Thế Âm Bồ-tát! Mẹ hiền ơi! Mẹ hãy cho con được mãi mãi gọi đứng tiếng “mẹ ơi” của đứa trẻ thơ gọi tiếng Mẹ đầu đời!

Con lắng chờ nghe tiếng mẹ bảo “ừ” với con!

HẠNH PHƯƠNG

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 918)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1238)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 707)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 678)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 750)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 763)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 744)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 727)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 884)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 770)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 926)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 930)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 854)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 865)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 806)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 953)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 886)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 830)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 916)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 839)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 789)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 891)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 819)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1076)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 853)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 941)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1086)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1562)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1097)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1167)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1042)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 912)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 860)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 889)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 745)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1421)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1296)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1258)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1202)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1326)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1254)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1401)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1280)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1141)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1199)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1248)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1232)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1356)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1252)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant