Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mạn đàm về chuông- một loại pháp khí của Phật giáo

10 Tháng Mười 201000:00(Xem: 14055)
Mạn đàm về chuông- một loại pháp khí của Phật giáo

Chuông, tiếng Phạn gọi là ghanta, ở Trung Quốc dịch là chung, khánh, là pháp khí dùng để gõ thông báo giờ giấc làm Phật sự và để tập hợp mọi người trong chùa.

Chuông chùa khởi nguồn từ ấn Độ, gọi là ghanta, khi truyền vào Trung Quốc mới gọi là chung. ở Trung Quốc thời Hoàng đế đã có thợ đúc chuông, vốn là nhạc khí để tế tự, yến hưởng, như ở thời Tây Chu có loại “biên chung”(1). Sau khi Phật giáo truyền nhập vào Trung Quốc thì chuông mới trở thành pháp khí hành lễ trong chùa. Khi triệu tập mọi người, ở ấn Độ thường gõ chuông làm bằng gỗ. Còn Trung Quốc thì thay bằng chuông đồng. Trong Tăng Nhất A Hàm Kinh, quyển 24 nói rằng: A Nan đi lên giảng đường, tay cầm ghanta và nói: Ta nay gõ trống của Như Lai, từ nay về sau các đệ tử của Như Lai nên tập trung đầy đủ. Bấy giờ, ông lại đọc kệ rằng:

Hàng phục ma lựcblank

Trừ kết vô hữu dư.

Lộ địa kích ghanta

Tỳ khưu văn đương tập.

Chư dục văn pháp nhân,

Độ lưu sinh tử hải,

Văn thử diệu hưởng âm,

Tận đương văn tập thử.

(Có nghĩa là:

Hàng phục bọn ma quái

Trừ sạch không còn gì.

Mặt đất gõ ghanta

Tỳ khiêu nghe nên đến.

Những người muốn nghe pháp,

Để qua biển sinh tử,

Nghe thấy âm diệu kì,

Tất cả nên tập hợp).

Về nguồn gốc ghanta, sách Ngũ Phần Luật, quyển 18 ghi: “Thời Phật Đà, có một lần tăng đoàn làm lễ bố tát(2) chưa thể kịp thời tập hợp, bèn tới một nơi hoang vắng toạ thiền hành đạo. Khi đó Đức Phật bèn bảo rằng phải gõ ghanta, hoặc gõ trống, thổi ốc để tập hợp. Cũng sách đó lại viết: “Các vị tỳ khiêu không biết làm thế nào để dùng gỗ làm ghanta, vì thế bạch với Đức Phật. Đức Phật nói: trừ cây sơn và các loài cây độc ra, còn các loại cây gõ phát ra tiếng, đều có thể làm được”.

Đại Trí Độ Luận quyển 2 nói: “Đại Ca Diếp đến đỉnh núi Tu Di gõ chuông đồng”. Qua đó có thể thấy đời sau cũng dùng đồng tạo chuông. Theo Đại Tỳ Khiêu Tam Thiên Uy Nghi, quyển hạ thì có 5 việc cần gõ ghanta, đó là:

1. Khi hội họp thường kì.

2. Khi ăn sáng.

3. Lúc ăn tối.

4. Khi trở về cõi Niết Bàn.

5. Mọi chuyện vô thường.

Về chủng loại nhìn chung chuông gồm hai loại: phạn chunghoán chung.

1. Phạn chung còn gọi là đại chung, điếu chung, chàng chung, hồng chung, kình chung bồ lao, hoa kình, hoa chung, cự chung, v.v… Phần lớn làm bằng đồng xanh, rất ít làm bằng sắt. Thông thường chuông cao khoảng 150cm, đường kính 60cm. Phía trên có quai chuông khắc hình đầu rồng. Phần dưới là hình hai toà sen đối nhau, gọi là bát diệp. Từ toà liên hoa trở xuống gọi là thảo gian. Mép viền dưới gọi là câu trảo. ở trên có hai phần là ao chứa và núm vú. Núm vú có hình nhỏ nhô lên, bọc vòng quanh, lại liên kết với chàng toà (toà hoa sen) tạo ra góc giao thoa, gọi là cà sa, lại gọi là lục đạo. Ngoài ra, bên cạnh núm tay quai có một lỗ hình tròn, thông với bên trong. Loại chuông này treo ở lầu chuông. Vì nó báo thời gian toạ thiền sớm tối nên được gọi là định chung. Nó còn báo cho mọi người đến tăng đường nên gọi là nhập đường chung dùng để tập hợp đại chúng hay báo thời gian sớm tối. Nếu căn cứ vào âm thanh của nó còn được gọi là kình âmĐời sau hay khắc chữ trên mặt trơn nhẵn của chuông.

2. Hoán chung còn gọi là bán chung, tiểu chung, phần lớn đúc bằng đồng thau, cao khoảng từ 60-80cm, được treo trong góc của Phật đường. Vì nó được dùng để thông báo sự bắt đầu của công việc hội họp trong chùa nên cũng được gọi là Hành sự chung.

Về cách gõ chuông, sách Hành Sự sao chép: “Khi Phật còn tại thế, chỉ có cách gõ ba tiếng”. Sách Ngũ Phần Luật chép: “Gõ ba hồi”. Về cách gõ ba hồi, sách Tứ Phần Luật Sớ Sức Tông Kí viết: “Mới gõ thì thừa mà nhẹ, dần dần tăng lên dồn dập mà mạnh, đến khi sắp dừng thì gõ nhẹ rồi thôi, gõ đủ thế gọi là một hồi. Cứ gõ thế cho đủ ba lần gọi là ba hồi. Sau khi gõ xong ba hồi, lại gõ mạnh 3 tiếng hoặc gõ mạnh 2 tiếng hoặc gõ mạnh 1 tiếng để biểu thị tiếng chuông chấm dứt”.

Trung Quốc, cách gõ chuông tuỳ theo tông thái, tuỳ từng khu vực mà có sự khác nhau, nhưng thông thường lấy 3 tiếng để bắt đầu, rồi 2 tiếng liền nhau để kết thúc. Số lượng tiếng chuông cần gõ trong thông lệ là 18 tiếng, cũng có thể gõ 36 tiếng hoặc 108 tiếng. Trong đó có lí do của việc gõ 108 tiếng có thể là ứng với các con số 12 tháng, 24 tiết khí và 72 thời hậu. Cũng có sách giải thích là để trừ bỏ 108 loại phiền não, vậy nên chuông thờ Phật còn có tên gọi là bách bát chung. Trong các ngôi chùa của Thiền tông, chuông được treo ở thiền đường, tăng đường, trai đường nên có tên gọi là tăng đường chung, đường chung, trai chung; chuông được treo ở điện thờ Phật thì được gọi là điện chung. Sư tăngchức phận gõ chuông được gọi là chung đầu. Thế nhưng khi gõ chuông, cần giải thích trong kinh luận mà nghiệm chứng. Sau khi gõ chuông lễ Tam bảo rồi thì có nghi thức đứng nghiêm chỉnh khấn rằng: Con gõ tiếng chuông này, xin mời tăng chúng mười phương, hễ ai nghe thấy, xin đến hội họp, cùng hưởng lợi lạc. Lại xin rằng các chúng sinh chịu khổ sở, đều được yên lành.

Về cách tạo chuông: chuông có thể được làm bằng gỗ, đá hoặc đồng, nét khắc rất tinh xảo, và thường có minh văn. Ngay ở thời Lục Triều đã có gác chuông. Trên chuông cũng có khắc minh văn. Chẳng hạn như năm Thiên Hoà thứ 5 (566) đời Bắc Chu, vua Chu Vũ Đế soạn bài Đại Chu hị giáo chung minh; năm Lân Đức thứ 2(665) đời Đường, vua Đường Cao Tông soạn bài Đại Đường Hưng Thiện tự minh chung, Kinh đô Tây Minh tự minh chung.

Từ đời Bắc Chu trở về sau, việc chế tạo chuông chùa cũng còn rất nhiều phiền phức. Ngoài ra, ở quả chuông chùa Hàn San ở Tô Châu có khắc bài thơ Phong Kiều dạ bạc của nhà thơ Trương Kế đời Đường, cũng hết sức nổi tiếng. Lại nữa, theo sách Nhập Đường Cầu Pháp Tuần Lễ Hành Kí quyển 3 của sư tăng người Nhật tên là Viên Nhân cũng thấy viết: “ở núi Ngũ Đài có hang Gác Chuông, đó chính là nơi Văn Thù Bồ Tát thị hiệngác chuông vàng”.

Hàn Quốc xưa nay đều rất chú trọng nghệ thuật đúc chuông, như ở Tân La vào niên hiệu Huệ Cung Vương thứ 7 (tức năm 771) đúc chuông chùa Thái Đức, gần đây, chuông được treo ở lầu chuông bên ngoài Nam môn Khánh Châu. ở Nhật Bản, bao nhiêu chuông đưa từ Trung Quốc sang đều được xem nhưquốc bảo. Chẳng hạn như chuông ở Thần cung Phong Tiền Vũ Tá, thần Cung Lưu Cầu, chùa Phi Tiền Huệ Nhật, chùa Viên Thành gần bờ sông, v.v…

Nhìn chung, đối với việc tu đạo, chuông có ích lợi rất lớn. Tăng Nhất A Hàm Kinh nói nếu khi gõ chuông thì hết thảy một điều xấu xa, mọi nỗi phiền khổ đều bị ngăn chặn. Sách Sắc tu Bách Trượng Thanh Quy quyển 8, chương Pháp khí nói: “Đại chung là hiệu lệnh chốn tùng lâm. Buổi sớm gõ chuông giúp phá tan đêm dài; buổi chiều chuông ngân làm giác ngộ ngõ tối”. Truyền thuyết kể rằng nước Cổ Nguyệt Chi có chiến tranh với nước An Tức, người bị giết hại có đến 90 vạn. Vì lí do ác báo, những người này sau khi chết hoá thành con cá lớn nghìn đầu, kiếm đeo quanh thân. Hễ cứ chém, đầu lại mọc ra, vô cùng ghê sợ. Để chấm dứt nỗi khổ sở này, người ta phải thỉnh cầu các vị la hán thường xuyên gõ chuông để xua đuổi tà ác.

Chính vì chuông có nhiều công đức, lợi ích như vậy nên khi thỉnh chuông người ta thường tụng chung thanh kệ để cầu quốc thái dân an, mọi phiền não tiêu tan để được viên thành Phật đạo./.

---------------------------------

 

Khoan Xương(*) Người dịch: Ánh Hồng Viện Nghiên cứu Hán Nôm

*. Bài đăng trong Thế giới văn hoá tôn giáo, Số 1-2002 (Tiếng Trung). 1. Biên chung: tên một loại nhạc khí, gồm nhiều chuông đồng treo trên một thanh gỗ để ngang. (Theo Từ nguyên-Thương vụ ấn thư quán, xuất bản 1995). 2. Bố tát:một nghi thức của Phật giáo. Tăng ni xuất gia cứ nửa tháng một lần họp lại chuyên tụng giới, gọi là “thuyết giới”, cho là có thể tăng trưởng được thiện pháp (Theo Từ điển Nho Phật Đạo, Nxb. Văn học).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10696)
Đức Thế Tôn bảo “bình an thật sự” không cách xa, nó đang ở bên trong chúng ta, nhưng chúng ta thường không nhận ra nó.
(Xem: 8874)
Tất cả mọi loài sống là để đi tìm hạnh phúc. Bản năng gốc của mọi loài là tìm kiếm hạnh phúc.
(Xem: 10033)
Theo lời Phật dạy, chuyển một cái xấu – ở đây là gian dối- trở thành cái tốt, tức chân thật, là chuyển nghiệp. Nhưng chuyển nghiệp như thế nào đây?
(Xem: 9967)
Trong lộ trình nương tựa nhau để tu học, mỗi người cần nhanh chóng nhận ra ai là thiện tri thức để thân gần và ai là ác tri thức để tránh xa.
(Xem: 9122)
Đã làm người và được sống, bất cứ ai cũng đều có cảm giác khoái lạc hay khổ đau. Cảm giác có thể sảng khoái hay dễ chịu hoặc không nằm trong hai điều đó.
(Xem: 10791)
Tất cả các pháp hữu vivô thường. Đây chính là lời dạy của đức Phật và được Ngài lập lại nhiều lần. Lời dạy này cũng là một trong những lời di huấn cuối cùng của Ngài.
(Xem: 14806)
Tuổi trẻ không tu, già hối hận, Thân bệnh tật, tai điếc mắt mờ, Gối mỏi lưng còng, giờ suy yếu, Cuộc đời gây tạo, bao ác nghiệp
(Xem: 11558)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựngvô cùng mạnh mẽ
(Xem: 9944)
Sống đồng nghĩa với hành trình, hành trình với hành trang và phương tiện chính mình, hành trình đến những mục đích.
(Xem: 12442)
Câu ‘Tâm bình thường là Đạo’ phát sinh từ câu chuyện ngài Triệu Châu đến hỏi đạo ngài Nam Tuyền. Ngài Triệu Châu hỏi: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp “Tâm bình thường là đạo”
(Xem: 10662)
Khi trong đầu hiện ra tình cảm về ‘Tôi’, nhiều tế bào trong nhiều vùng khác nhau của não bộ trở nên năng động cùng một lúc và làm dao động hàng ngàn các tế bào não khác.
(Xem: 10171)
Kinh sách Phật Giáo thường so sánh Đức Phật như một vị Lương Y. Điều này hiển nhiên cho thấy việc chữa trị bệnh tật là tâm điểm của Phật giáo.
(Xem: 10510)
Có nhiều người nhận lầm học Phật, hiểu đôi điều về giáo lý Đức Phật là tu rồi, đây là một sai lầm lớn trong nhận thức, vì tu và học là hai phạm trù khác nhau.
(Xem: 10442)
Theo thuyết nhà Phật, có duyên mới tạo ra nghiệp, trả nghiệp sẽ có duyên cao hơn, cứ theo thế mà thoát ra khỏi luân hồi.
(Xem: 10308)
Mỗi ác nghiệp là tờ giấy nợ Trả hiện tại hoặc trong tương lai Vay nhiều thì nợ càng nhiều Nhân quả theo ta như hình với bóng
(Xem: 9847)
Thời gian qua nhanh, tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già, cái chết sẽ đến, không biết về đâu?
(Xem: 9071)
Hạnh nguyện độ sinh của Bồ tát Quán Thế Âm trong cõi Ta Bà giúp cho tất cả mọi người “quán chiếu cuộc đời” để đạt được giác ngộ, giải thoát.
(Xem: 9155)
Cuộc sống viên mãn của con người cần hội đủ hai phương diện vật chấttinh thần (tâm linh). Chúng phải song hành tồn tại nhằm hỗ tương lẫn nhau, giúp con người thăng hoa cuộc sống.
(Xem: 11019)
Với hành nguyện lắng nghe tiếng khổ, để đem niềm vui xoa dịu cho chúng hữu tình nơi thế giới hành đạo của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Chúng con, trên bước đường tìm cầu sự giác ngộ, cũng xin được học đòi đức tính thù diệu ấy.
(Xem: 9381)
Lòng tham con người như giếng sâu không đáy không bao giờ biết chán, biết đủ, biết dừng. Người có quyền cao chức trọng thì lợi dụng chèn ép, bóc lột kẻ dưới.
(Xem: 12872)
Bài này để nói thêm về tương quan giữa Phật học và nghệ thuật – các bộ môn như âm nhạc, thi ca, hội hoạ, tiểu thuyết, kịch, phim …
(Xem: 12388)
Ai cũng thích được tán dương, khen ngợi, ai cũng thấy dễ chịu với những lời khen, dù bản thân không đúng hoặc đúng rất ít với lời khen đó.
(Xem: 8937)
Khi được khen ta cũng chớ vội mừng và khi bị chê ta cũng chớ vội buồn. Nếu ta vội mừng hay buồn như vậy thì tâm mình rất dễ bị dao động, khi bị dao động ta sẽ bất an.
(Xem: 9359)
Từ Thứ Năm tới Thứ Hai, ngày 6 tới 10 tháng 8 năm 2015, Khóa Tu Học Phật Pháp Bắc Mỹ Lần Thứ 5 sẽ diễn ra tại Khách Sạn Town and Country Resort Hotel, Thành Phố San Diego
(Xem: 9445)
Thiền sư xuống núi. Một túi vải đơn sơ với y áo và dăm cuốn kinh đã lật nhăn cả giấy...
(Xem: 9322)
Ý nghĩa tích cực của giải thoát là sống ràng buộc giữa các mối quan hệ nhưng ta có tự dotự tại.
(Xem: 8911)
Sân hậnthù oán là hai trong số những người bạn gần gũi nhất của chúng ta. Khi còn trẻ, tôi đã có một mối quan hệ rất gần gũi với giận dữ.
(Xem: 8752)
Bồ-tát Quán Thế Âm luôn hiện thân trong mọi trường hợp để tùy duyên giúp đỡ, cứu khổ cho người. Đã làm người trong trời đất, ai không một lần lầm lỗi, vấp ngã, khổ đau.
(Xem: 10070)
Giảng Pháp và thính Pháp là những Pháp sự không thể thiếu trong chương trình tu học của các tự viện đúng nghĩa.
(Xem: 8413)
Nguyên tác: The Five Trainings for Bodhichitta Resolve, Tác giả: Alexander Berzin/ Moscow, Russia; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 8079)
Khi những hiện tượng được phân tích một cách riêng lẻ như vô ngã, và những gì đã từng được phân tích trên thiền quán, đấy là nguyên nhân cho việc đạt đến hoa trái, niết bàn.
(Xem: 15221)
Đức Phật có dạy đừng tìm về quá khứ, vì quá khứ đã qua rồi, đừng tìm về tương lai, vì tương lai chưa tới, hãy an trú trong hiện tại.
(Xem: 10510)
Những câu chuyện thật chốn Thiền môn do các bậc trưỡng lão kể lại luôn luôn là những bài học hay nhất, là nguồn động lực lớn nhất cho các thế hệ mai sau noi gương ...
(Xem: 10549)
Đối với Thế Tôn sự sở hữu tài sản vật chất tiền bạc, ruộng vườn, nhà cửa…, chưa thật sự là người giàu có, sự giàu có đó vẫn nằm trong vòng lẩn quẩn của sự đau khổ, luân hồi chi phối.
(Xem: 8658)
Ai biết nỗ lực, siêng năng, tinh cần học hỏi, quyết chí vươn lên sống không ỷ lại nhờ vã người khác, thì người này nếu đầy đủ phước báu sẽ thành tựu trong nay mai.
(Xem: 8786)
Vì tự nguyện, cố nhiên họ hạnh phúc với chọn lựa của họ. Cơm ăn áo mặc không bận lòng. Ba y thô sơ, đắp đổi ngày tháng. Một bình bát dạo khắp muôn nhà.
(Xem: 8333)
Người đời khi gặp quả xấu đến, nếu không oán trời trách đất cũng đổ thừa tại gia đình người thân hay xã hội, ít ai nghĩ đến nhân quả công bằng mà sinh lòng ăn năn hối cải.
(Xem: 11848)
Theo tinh thần từ binhân bản của Phật giáo, người cư sĩ sau khi ly hôn hay người bạn đời chết đi thì có thể tái hôn bình thường.
(Xem: 10613)
Đức Phật bình đẳng giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán, không oán giận kẻ hại mình mà còn khoan dung độ lượng để họ cải tà quy chánh.
(Xem: 10377)
Ai tạo ác nghiệp thì sẽ bị đọa vào ba đường ác địa ngục, ngạ quỷsúc sinh. Nhất là tạo những nghiệp ác nặng nề thì chắc chắn sẽ rơi vào địa ngục.
(Xem: 13192)
Từ bi hỷ xả, nhẫn nhịn nhường là bí quyết để giúp cho mọi người sống như chiếc lá, dù có bị bão tố phong ba cuốn trôi lặn hụp, nhưng ta vẫn đủ sức vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời mà sống an nhiên tự tại trong mỗi hoàn cảnh.
(Xem: 8109)
Mỗi người sinh ra có một hoàn cảnh, sự sống hoàn toàn khác biệt nhau. Do sự chiêu cảm nghiệp báo quá khứ nên đời sống hiện tại của chúng ta có sự bất đồng trên mọi phương diện, không ai giống ai.
(Xem: 10060)
Cá ở trong lưới mà nhảy ra được, mới thật là hay. Vượt cạn lên bờ được mấy ai? Thoát khỏi cạm bẫy cuộc đời thật là khó vô cùng, nhưng người có ý chíquyết tâm cao độ sẽ làm được chuyện này.
(Xem: 8498)
Tâm giác ngộ là một thể trạng của tâm có nhiều thành phần với nó. Khi chúng ta phát tâm giác ngộ, nó có hai phương diện.
(Xem: 9603)
Chúng ta mỗi ngày quyết định không biết bao nhiêu việc và phần nhiều là những chuyện không quan trọng. Nhưng có đôi lúc, một quyết định nhỏ có thể ảnh hưởng không chỉ chính mình, mà còn...
(Xem: 10084)
Mọi người chúng ta đều than cuộc sống là đau khổ..., người nghèo có cái khổ của người nghèo, người khá giả có cái khổ của người khá giả.
(Xem: 9873)
Hãy dành ít thời gian suy nghĩ về bảy bí quyết này. Đừng gạt chúng qua một bên để làm chuyện khác, mà hãy áp dụng những bí quyết này vào cuộc sống của bạn.
(Xem: 8707)
Học để hoàn thiện chính mình là việc học suốt cả cuộc đời, chẳng thể nào được tốt nghiệp trọn vẹn, nếu ta không có đủ ý chínghị lực.
(Xem: 22184)
Nhân dáng từ bi của quý Ngài thường xuyên biểu hiện trong suốt 2 tuần qua đã biến ngôi già lam thanh tịnh này trở thành một ngôi thánh địa uy nghiêm bởi lời kinh tiếng kệ...
(Xem: 10121)
Đạo Phật có nhiều truyền thống cũng như vô lượng pháp môn tu. Nhưng dù tu theo bất cứ pháp môn nào, cách thức nào thì nội dung tu tập vẫn không ngoài Chỉ và Quán.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant