Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhận diện và yêu mến cuộc đời

20 Tháng Tư 201100:00(Xem: 14332)
Nhận diện và yêu mến cuộc đời

NHẬN DIỆN VÀ YÊU MẾN CUỘC ĐỜI
Thích Thái Hòa

Có nhiều vị tương đối có chút trí thức và ngay cả một vài Phật tử cũng
thường cho mình là trí thức Phật giáo, đã gặp tôi nói chuyện và đề
nghị tôi nên góp phần vào việc “hiện đại hóa Phật giáo”.

Tôi đã cười và nói với các vị ấy rằng: “Đạo Phật không cần hiện đại
hóa, mà các anh nên hiện đại hóa cách nhìn và cách tu của các anh cho
thích hợp với đạo Phật”.

Ở trong kinh Đức Phật đã từng dạy: “Những gì Ngài đã trình bày ở trong
giáo pháp, phần đầu là thiện, phần giữa là thiện và phần sau là
thiện”.

Thiện do Đức Phật trình bày, thiện ấy là tốt đẹp, cao thượng và hoàn
chỉnh. Thiện ấy là xuyên suốt mọi thời gian mà không phải từng giai
đoạn. Và thiện ấy là xuyên suốt mọi không gian mà không phải bị đóng
khung cục bộ, trong một xứ sở. Vậy, ta hiện đại hóa đạo Phật là ta hiện
đại hóa cái gì nơi đạo Phật?

Những gì Đức Phật dạy là khế lý. Vì chính nó là chân lý do tự thân
Ngài chứng nghiệmgiác ngộ. Nó như vậy là như vậy. Ta muốn làm cho
nó cũ cũng không được và muốn làm cho nó mới cũng không xong. Vậy, ta
hiện đại hóa cái gì nơi chân lýĐức Phật đã chứng ngộ?

Những gì Đức Phật đã dạy là khế cơ. Lời dạy khế cơ, là lời dạy thích
ứng với thực tế, không viễn vông, mơ hồ, đúng với trình độ và hoàn
cảnh của con người hay chúng sanh.

Lời dạy khế cơ là lời dạy thích ứng với nghiệp lực của chúng sanh
có khả năng làm thay đổi nghiệp lực ấy thành nguyện lực. Vì do nghiệp
lực chúng sanh sai khác, nên căn cơ, trình độ của họ sai thù, vạn
biệt, vì vậy trước khi vận chuyển pháp luân, Đức Phật đã quán chiếu
tường tận về nghiệp duyên của chúng sanh, để chuyển vận giáo pháp cho
thích ứng, nhằm giúp chúng sanh chứng nghiệmgiác ngộ chân lý theo
điều kiện và tầm mức của họ.

Tầm mức trình độ của họ ngang đâu, thì họ hiểu lời Phật dạy ngang đó,
chứ không phải Đức Phật và lời dạy của Ngài, ngang nơi tầm mức họ
hiểu. Đức Phật và lời dạy của Ngài không một ai có thể hiểu hết, ngay
cả những vị Bồ-tát còn một đời nữa sẽ được bổ xứ thành Phật, vậy ta là
ai mà đòi hiện đại hóa đạo Phật? Vì Phật thì không cần phải hiện đại,
vì Ngài là xuyên suốt cho mọi thời đại.

Và những gì Đức Phật dạy là khế thời. Vì nghiệp lựcquả báo của
chúng sanh không nhất định, không có người nào giống người nào, và
cũng không có loài nào giống loài nào, và cũng không có thời đại nào
giống thời đại nào. Tại sao? Vì nó luôn luôn vô thườngbiến chuyển
theo duyên để khởi hiện hay ẩn tàng. Và tuy nó hiện khởi hay ẩn tàng,
nhưng nó vẫn luôn luôn thống nhất trong một dòng chảy của nghiệp. Thời
đại nào cũng liên hệ đến nghiệp của chúng sanh, và từ nơi nghiệp thiện
ác của chúng sanh mà biểu hiện.

Nên, pháp của Đức Phật dạy là để chuyển hóa nghiệp chủng xấu ác của
chúng sanh, chứ không phải chạy theo nghiệp chủng của chúng sanh để
hiện đại hóa đạo Phật.

thời đại nào, chúng sanh cũng cần có an lạchạnh phúc, cũng cần
tự dogiải thoát. Họ muốn vậy, nhưng không thể, là vì do nghiệp
chủng xấu ác của họ. Vậy, muốn có hạnh phúcan lạc, giải thoát
tự do, thì tự thân của họ phải chuyển hóa nghiệp chủng xấu ác; họ phải
biết đặt gánh nặng nghiệp chủng xấu ác của họ xuống để bước tới và đi
lên.

Pháp của Phật, nếu ai thực hành, thì sẽ có khả năng giúp họ chuyển hóa
những nghiệp chủng xấu ác ấy để thành tựu đời sống an lạc và hạnh
phúc, giải thoáttự do. Và vì vậy, pháp của Phật là thích ứng cho
mọi thời đại của chúng sanh.
Vì vậy, ở đâu và lúc nào trong ba cõi, pháp của Phật cũng thích ứng
với những khát vọng cao quý của chúng sanh, nên pháp của Phật dạy, gọi
là khế thời.

Lại nữa, pháp của Phật không phải chỉ có một pháp môn mà có đến vô
lượng pháp môn để đáp ứng nhu cầu tu học cho hết thảy chúng sanh. Nếu
ta là người tu học có chất liệu của trí tuệtừ bi, và là người có
tâm nguyện hoằng pháp, thì ta trình bày pháp môn này cho chúng sanh tu
học, nếu không thích ứng, thì ta hãy trình bày pháp môn khác; nếu ta
trình bày bằng phương pháp này mà họ không hiểu, thì ta trình bày bằng
những phương pháp khác. Nghĩa là chân lý giác ngộ thì chỉ có một, mà
phương pháp để đạt ngộ, lại có nhiều cách, có nhiều pháp môn. Vì vậy,
ta không nên quá cứng kẹt ở pháp môn này mà chỉ trích pháp môn kia, vì
làm như vậy, dù vô tình, ta vẫn tạo ra sự phân cắt, chia rẽ và bè
phái, tạo nên sự bất ổn cho xã hội.


Một người muốn hoằng pháp theo pháp của Đức Thế tôn, điều kiện trước
hết là vị ấy phải học pháp và hành pháp do Đức Thế tôn giảng dạy, để
tự thân giác ngộthể nhập chân lý tối hậu của pháp mà Ngài muốn
nói.

Sự thể nhập ấy, gọi là khế lý. Nếu không có khế lý, lấy gì để khế cơ
và khế thời? Khế cơ và khế thời phải từ nơi khế lý mà biểu hiện. Và vì
vậy, người hoằng pháp biết khế cơ và khế thời cũng phải có khả năng
chuyển tải nội dung của khế lý.

Nên, khế cơ và khế thời cũng chỉ là cách nói của khế lý mà thôi. Nếu
không, thì khế cơ và khế thời cũng chỉ là những sáng tạo tùy tiện,
chúng có tác dụng gây mê, làm dịu thần kinh cho những người khó ngủ mà
không phải là đạo lý chân thực.
Và nếu ta không học pháp và hành pháp để chứng nhập lý tính chân thực
và từ nơi lý tính chân thực ấy, mà biểu hiện cuộc sống của trí tuệ
từ bi, thì ta lấy gì để hoằng pháp?

Phải chăng hoằng pháp là mượn ngôn ngữ của trí tuệtừ bi để phơi
bày kiến thức về đạo Phật của mình cho người khác? Hoằng pháp như vậy,
thì chẳng có pháp nào của Phật để hoằng, mà ta chỉ phơi bày bản ngã
của ta, tạo ra những rối rắm và phe nhóm cho xã hội vậy.

Tại sao? Vì ngôn ngữ trí tuệ không phải là trí tuệngôn ngữ từ bi
không phải là từ bi. Cũng vậy, ngôn ngữ diễn tả cái nón, tự thân của
nó không phải là cái nón. Cái nón phải là cái nón của tự thân, nó
không hề dính dáng gì đến những ngôn ngữ của người đang diễn tả về nó.
Vì nón và người đang diễn tả về nón là hai thực thể khác biệt, hai
nhân duyên khác nhau vậy.

Nên, tôi đã nói với quý vị ấy rằng: Mình cứ thực tập những gì Đức Phật
đã dạy, ngay trong những điều kiện mà mình đang sống, để có thể tháo
tung những hạt giống kiêu mạnchấp ngã đang ràng buộc nơi tâm mình,
khiến cho tâm mình càng lúc càng sáng và càng lúc càng có tự do.

Ta đem tâm trong sángtự do ấy, để tiếp xúc với mọi sanh vật, ta sẽ
phát hiện được nhiều cái mới nơi ngoại cảnh, qua cách nhìn của ta. Và
một lần tiếp xúc lại là một lần mới. Mới ngay từ nơi cách nhìn và cách
ứng dụng của ta.

Cũng vậy, khi ta đặt la bàn xuống một điểm và ta nhìn mọi vật từ một
điểm của la bàn, thì mọi vật sẽ hiện nguyên hình cho ta từ một điểm ấy
để ta nhận diện. Và cũng la bàn ấy, ta chỉ cần nhích cái kim của la
bàn sang một điểm khác, thì cũng từ nơi một điểm khác ấy của la bàn,
mọi vật sẽ hiện nguyên hình cho ta từ một điểm mới ấy để cho ta nhận
diện. Và cứ như vậy, ta chỉ cần thay đổi một điểm, một cự ly là ta có
một cách nhìn mới, một cách phát hiện mới đối với mọi sự vật qua cái
la bàn của ta. Nên vua Trần Nhân Tông nói: “Nhất hồi niêm xuất, nhất
hồi tân”. Nghĩa là một lần đưa ra là một lần mới tinh. Một lần nhích
la bàn là một lần ta có cách nhìn mới đối với mọi sự vật.

Vì vậy, tâm ta đầy những hạt giống vô minh, kiêu mạnchấp ngã, ta
cố gắng nói cho mới, trình bày cho mới và nỗ lực làm cho mới, thì nó
vẫn là cũ. Và mỗi khi ta biết ứng dụng lời Phật dạy vào trong đời sống
của ta, thì những hạt giống vô minh, kiêu mạnchấp ngã nơi tâm ta
tự nó lắng xuống, bấy giờ tâm giải thoát và sự sáng trong nơi tâm ta
biểu lộ một cách tự nhiên, thì cho dù ta nói chuyện cũ mà vẫn thành
chuyện mới, ta làm việc cũ mà vẫn thành việc mới, hay khi ta nói hoặc
làm, ta chẳng cần quan tâm đến cũ và mới gì cả, mà lời nói của ta vẫn
khế lý, khế cơ và khế thời như thường.

Nên, mới hay cũ, hợp thời hay không hợp thời là do khả năng diệt trừ
hay không diệt trừ những mê lầm của phiền nãovô minh nơi tâm ta.

Mỗi ngày, ta nhận diện những phiền não nơi tâm ta và làm cho chúng
càng lúc càng lắng yên là mỗi ngày tâm ta đều mới. Ta hãy đem cái mới
ấy để nhận diện và yêu mến cuộc đời.

Thích Thái Hòa

-Tạp chí HƯƠNG THIỀN SỐ 2 Xuất Bản ( H.T. Thích Nhựt Chiếu Chủ Biên)
http://www.thuviencophap.org/2011/04/nhan-dien-va-yeu-men-cuoc-oi.html
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1401)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
(Xem: 1816)
Bản Ngã Càng Lớn, Sĩ Diện Càng Nhiều, Càng Dễ Bị Tổn Thương.
(Xem: 1571)
Thân mạng chúng tachúng ta không biết yêu thương thì làm sao chúng ta có đủ yêu thương để gửi đến người khác.
(Xem: 1344)
Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt.
(Xem: 1636)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 2153)
Quán tưởngphương pháp Phật tử áp dụng hằng ngày, luyện cả thân tâm, đem lại sự hòa hợp giữa tinh thầnvật chất, giữa con ngườithiên nhiên.
(Xem: 1899)
Hành động phản ánh được ý thức, tính cách của mỗi người, lời nói, suy nghĩ thế nào sẽ biểu hiện ra hành động như thế đó,
(Xem: 1261)
Hôm ra mắt đợt đầu 29 cuốn của Thanh Văn Tạng trong công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hội Đồng Hoằng PhápHội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời tổ chức tại Little Saigon, Miền Nam California, Hoa Kỳ, vào ngày 19 tháng 3 năm 2023
(Xem: 1442)
Đạo Phật được biết đến như một tôn giáo hiền hòa nhất và điều đặc biệtcuộc đời vị lãnh đạo tinh thần tối cao của đạo Phật gắn liền với những cái cây.
(Xem: 1435)
Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành - trụ - hoại - không.
(Xem: 1723)
Dĩ nhiên là người phàm chúng ta không ai thấy được địa ngục, trừ Đức Phật và các bậc Thánh La-hán.
(Xem: 1481)
ghiệp là tất cả những hành động có tác ý, biểu hiện thường xuyên bằng thân, khẩu, hay ý.
(Xem: 1344)
Phật giáo không chỉ chủ trương từ bi đối với con người, tôn trọng đối với mọi sinh mệnh mà còn phải bảo vệ môi trường sống thiên nhiên,
(Xem: 1487)
Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật,
(Xem: 1430)
Trước đây, vào thời niên thiếu, tôi chưa từng tín ngưỡng bất kỳ một tôn giáo nào. Tôi đang đứng giữa ngã tư đường, không Phật cũng không Đạo.
(Xem: 1755)
Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có một cái “Tôi” và tính chấp thủ, nhưng có người ý thứcquán chiếu được điều đó
(Xem: 1453)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1413)
Nhưng giới khoa học vẫn còn hoang mang trong nhận định thế giới vật chất đời thường là ảo, không có thực thể.
(Xem: 1430)
quan niệm rằng người có danh phận, giàu sang là do phước và cúng dường, hộ trì người có phước thì được phước nhiều hơn?
(Xem: 1499)
Hai từ chiến tranh, không ai trong chúng ta là không nghe đến. Trong quá khứ đã có rất nhiều cuộc chiến tranh xảy ra trên quả địa cầu nầy,
(Xem: 1687)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có tên gọi đầy đủ là :"Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm",
(Xem: 1587)
Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện.
(Xem: 1525)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phương pháp phòng hộ các căn môn được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 1404)
Kể từ khi con người biết xử dụng tiền bạc làm đơn vị trao đổi mua sắm đến nay, thì không ai là không cần đến tiền!
(Xem: 1492)
Đối trong nhà Phật thì thế gian gồm có khí thế gianchúng sanh thế gian.
(Xem: 1206)
Đây là một trường hợpThiền sư Thích Nhất Hạnhcộng đồng của Thầy đã thay đổi cuộc đời của một người.
(Xem: 1969)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1387)
Đời tôi gần giống như cuộc đời của cậu bé mồ côi ở Viện Dục Anh trong văn Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi đều sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Đời tôi gắn liền với tập thể, lớn lên và nương tựa vào tập thể.
(Xem: 1539)
Để giúp người Phật tửđời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản.
(Xem: 2902)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1541)
Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt…
(Xem: 1733)
Điều phi đạo là những việc dẫn đến sự hao tài, thứ nhất đó là đam mê cờ bạc.
(Xem: 1587)
Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(Xem: 2033)
Nếu có ai đó hỏi Phật Pháp có gì hay thì những người đệ tử Phật sẽ trả lời như thế nào?
(Xem: 1572)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1774)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1975)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(Xem: 2165)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(Xem: 1638)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(Xem: 2606)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(Xem: 1705)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 1885)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(Xem: 1846)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(Xem: 1610)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(Xem: 2355)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1789)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1843)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1718)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2090)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
(Xem: 2062)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant