Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Người tại gia hay xuất gia đều bình đẳng trong Thánh đạo

12 Tháng Mười 201000:00(Xem: 12842)
Người tại gia hay xuất gia đều bình đẳng trong Thánh đạo


NGƯỜI TẠI GIA HAY XUẤT GIA 
ĐỀU BÌNH ĐẲNG TRONG THÁNH ĐẠO

 

Yếu tính của Phật pháp là sự vận hành diệu dụng của từ bitrí tuệ. Cho nên, Phật pháp trước hết là ngôi nhà dưỡng lão, là viện cô nhi, là trại tế bần. Điều này được theo cả ý nghĩa tượng trưng, và cả sinh hoạt thực tiễn

Chúng đệ tử của Phật, do xu hướng sinh hoạt đời thường khác nhau, nên phân thành hai, tại giaxuất gia. Rồi lại do tính phái dị biệt nên chia thành bốn. Dù hai chúng, hay dù bốn chúng, các đệ tử đều có chung một Thánh đạo để đi, có chung một cứu cánh Niết-bàn để đạt đến.

Thủa xưa, khi thế giới này mới thành hình, khi mặt đất này chưa xuất hiện sinh vật, tổ tiên của loài người là những chúng sinh sống trong cõi Quang âm thiên, hay Cực quang thiên. Các chúng sinh ấy phi hành trong không gian theo tốc độ ánh sáng, tồn tại với thức ăn hỷ lạc do tầng số dao động của ánh sáng tạo nên. Cho đến khi chúng bị hút xuống mặt đất, mất khả năng di chuyển theo ánh sáng, phải nếm vị của đất làm thực phẩm, để rồi thân thể càng lúc phì đại. Thoạt kỳ thủy, chưa có sự phân biệt tính phái. 

Sinh vật nguyên thủy ấy nếm vị đất làm thức ăn ; quá trình tiêu hoá, hấp thu, bài tiết, diễn thành những chu kỳ tiếp nối, dần dần tổng hợp thêm nhiều loại thức ăn mới. Giai đoạn tổng hợp cuối cùng, đó là lúa gạo. Và cũng sẽ còn nhiều tổng hợp tương lai nữa. Phù hợp với quá trình tổng hợp thức ăn, thân thể của chúng sinh cùng theo đó mà tiến hoá. Cho tới một lúc, sự phân biệt tính phái xuất hiện. Từ phân biệt tính phái dần dần tiến tới phân biệt chủng loại, chủng tộc, dân tộc, và đẳng cấp. Đó là hình thái tiến hóa tất nhiên của xã hội loài người.

Khi Phật thuyết kinh này, chỉ lại quá trình tiến hoá và phát triển của xã hội, Ngài muốn giải thích cho các đệ tử hiểu rõ rằng mọi phân biệt trong thế gian, những mâu thuẫn tranh chấp giữa các cộng đồng xã hội, và dân tộc, chỉ là hệ quả do tác động bởi các môi trường sống, môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội. Nói cách khác, là do những tương tác giữa các biệt nghiệp và cộng nghiệp. Điều đó không chỉ khai thị ý nghĩa rằng tất cả mọi dân tộc, bất kể khác nhau trong quá trình tích lũy sở hữu vật chất như thế nào, thảy đều bình đẳng trong phẩm chất như là con người; thêm nữa, điều đó còn khai thị ý nghĩa rằng tất cả chúng sinh đều bình đẳng trong thể tánh.

Qua nội dung lược thuật từ một đoạn kinh như trên, ở đây tạm thời chúng ta có thể nói rằng, trên căn bản tư tưỏng và nhận thức như vậy, Phật tử hành đạo giữa đời thường mà không hề thấy tự mình cách ly và mâu thuẫn với người đời. Nhận xét này có lý do của nó.

Từ trước, trong xã hội Việt nam, tu Phật đồng nghĩa xa lánh mọi sinh hoạt thế gian. Nhiều người bà con lớn tuổi của tôi, rất tin Phật và rất thường xuyên đi chùa lễ Phật, nhưng lại nói, chưa dám quy y Phật, vì còn ham uống rượu, và còn ham nhiều thứ khác nữa.

Nói thế thì các chúng đệ tử của Phật đều là các vị Thánh hết, vì chẳng ai còn tham, sân, si; chẳng còn ham muốn vật chất gì nữa. Nhưng, kinh nói, Phật pháp như thuốc. Tùy bịnh mà cho thuốc. Hết bịnh, không còn cần đến thuốc.

Cho nên, không ai nói rằng chờ tôi lành bịnh rồi sẽ vào nằm bịnh viện. Trong ý nghĩa đó, chúng ta hẵn không ngạc nhiên khi phải nhận xét rằng, giáo lý của Phật cao siêu như thế mà sao các đệ tử Phật sống chẳng cao siêu chút nào. So sánh một cách tượng hình, nói thế thì cũng như nói rằng, bịnh viện kia hay thế, nhiều bác sỹ giỏi thế, mà sao con bịnh lại càng ngày càng đông, không ít đi chút nào.

Chúng ta có nguỵ biện quá chăng, khi so sánh như vậy? Về nghĩa lý thì không ngụy biện, nhưng trong thực tế thì có ngụy biện đấy. Thực tếngụy biện, vì qua thực tế có một bộ phận tại gia cũng như xuất gia tự nhận là đệ tử Phật nhưng sống bê tha, thác loạn, tiêu chuẩn đạo đức còn dưới những người không tin Phật; hoặc viện dẫn kinh điển để biện hộ cho sự suy thoái nhân cách của mình.

Trường hợp này có thể so sánh con bịnh đến bịnh viện mà không chịu tuân theo quy tắc điều trị của bác sỹ; tự mình ăn uống, ngủ nghỉ, làm theo ý thích của mình; nhưng lại chê trách bịnh viện chữa trị không hiệu quả; bịnh càng tăng chứ không hề thuyên giảm.

Tuy vậy, bịnh viện cũng vẫn thấy có phần trách nhiệm, vì đã không chăm sóc bịnh nhân đúng mức, và nhất là không có biện pháp nghiêm khắc khi cần thiết phải nghiêm khắc.

Điều cũng nên lưu ý ở đây là, các thí dụ nêu trên chỉ có ý nghĩa tùy theo chỗ áp dụng, hoặc cho chúng xuất gia, hoặc cho chúng tại gia. Trong sự hành trì giới luật, chúng xuất gia nếu phạm giới thì có thể bị trị phạt, hoặc có thể bị tẫn xuất. Điều khoản giới luật của người xuất gia khá nhiều ; không có điều vi phạm nào mà không có những quy định trị phạt kèm theo.

Giới tại gia ít hơn; chỉ năm hoặc tám giới thôi. Thực tế so với người xuất gia thì tại gia vi phạm học giới của mình rất thường xuyên hơn, nhưng chỉ được khuyên bảo là nên sám hối để nghiệp chướng mỏng dần đi thôi, chứ không có hình thức trừng phạt nào cả.

Trong liên hệ này, chúng ta có thể nhắc lại thí dụ về bịnh viện. Một bịnh viện, hay bác sỹ có lương tâm, không từ chối bất cứ con bịnh nào. Ngay cả khi không còn hy vọng cứu chữa, bác sỹ vẫn cố tạo cho bịnh nhân hy vọng sẽ được cứu chữa. Đó là tình yêu trong chức nghiệp. Đức tính từ bi được thể hiện trong những lời dạy của Phật cũng vậy.

Tất nhiên ở đây chúng ta không nói quá lời để binh vực các Cư sĩ tại gia tin Phật nhưng thiếu nghị lực, giải đãi, sống phóng đãng mà không hề có chút phản tỉnh

Dù sao, nhìn trên bề mặt, người tại gia hành đạo có khó hơn xuất gia, bởi vì phải sống ngay giữa dòng xoáy ô trược, thường xuyên bị vị ngọt của thế gian hấp dẫn. Sự khó khăn này là nói theo khoảng thời gian để thành tựu cứu cánh, sớm hay muộn khác nhau.Khó, vì thời gian thành tựu quá dài.

Trên đại thể, sống tại gia hay xuất gia, chỉ do căn tánh dị biệt, cơ duyên sai biệt, chớ không vì chỗ này khó tu hơn chỗ kia. Trong thời đức Phật, nhiều vị xuất gia, kể cả Ngài A-nan, tất nhiên có rất nhiều thuận duyên để tu tập, nhưng chỉ mới chứng được sơ quả, là quả Thánh mà các Cư só như Ông Cấp Cô Độc, Bà Tỳ-xá-khư và nhiều Cư sĩ khác nữa chứng đắc không mấy khó khăn. Còn những người tại gia khác như Thủ Trưởng giả ở Tỳ-da-ly, hay Úc-già ở Tượng thôn, tuy sống tại gia, lại đắc quả trong Thánh đạo còn cao hơn ngài A-nan. 

Vậy thì, vấn đề không phải ở chỗ khó hay dễ, giới nhiều hay giới ít, mà chính là thành tựu mục đích cứu cánh. Trong ý nghĩa đó, tại gia hay xuất gia đều bình đẳng trong Thánh đạo. Xuất gia nếu để rơi mất tâm bồ đề, thì dù về hình thức có nói là đang hành Phật sự nhưng thực chất là đang tu theo ma nghiệp. Tại gia tuy sống và làm việc theo thế gian, nhưng làm với tâm bồ đề, thì tất cả thế gian pháp đều là Phật pháp. Kinh chữ Hán nói, “Vong thất bồ đề tâm, tu chư thiện pháp, tức thành ma nghiệp.”

Nhưng làm thế nào để phát khởi được tâm bồ đề, và rồi làm sao để an trụ tâm ấy? Đó là những câu hỏi mà ngài Tu-bồ-đề đã hỏi Phật trong kinh Kim cang. Điều khó khăn nhất để hiểu Phật pháp đối với học Phật và tu Phật, đoạn đường khó khăn nhất, dài nhất phải vượt qua, mà thường là dài đến một a-tăng-kỳ kiếp, đó là làm sao để thấy biết một cách như thực rằng, trong tự thể, trong tự tánh, ta là Phật tử, là con Chân thật của Như lai, sinh ra từ kim khẩu của Như lai, hóa sinh từ Chánh pháp của Như lai, là kẻ thừa tự gia tài Chánh pháp của Như lai.

Như người cùng tử trong kinh Pháp hoa, không phải dễ dàng một sớm một chiều để thấy ngay rằng thân phận của mình không phải là kẻ tôi tớ hèn hạ, chỉ xứng đáng với công việc quét dọn các hàm xí.

Vậy thì, tâm bồ đề, tức ước nguyện thành Phật, là nền tảng tâm địa cho Phật tử học đạohành đạo.

Tuy nhiên, khởi đầu, không phải tất cả mọi người tìm đến Phật pháp chỉ với ước nguyện duy nhấtthành Phật. Rất nhiều người tìm đến Phật pháp để tìm nguồn an ủi tinh thần, để làn vơi đi thống khổ đang phải chịu đựng. Đó là phương diện cứu thế của Phật pháp.

Yếu tính của Phật pháp là sự vận hành diệu dụng của từ bitrí tuệ. Cho nên, Phật pháp trước hết là ngôi nhà dưỡng lão, là viện cô nhi, là trại tế bần. Điều này được theo cả ý nghĩa tượng trưng, và cả sinh hoạt thực tiễn. Như khi Trưởng lão Tu-bồ-đề hỏi Phật, Bồ tát làm thế nào để phát khởi tâm bồ đề, và làm thế nào để an trụ tâm ấy, thì Phật chỉ ngay phương pháp thực hiện, đó là tu tập bố thí. Chính sự bố thí khi được tu tập đến mức thành tựu tuyệt đối thì cùng dẫn đến thành tựu các ba-la-mật khác.

Trong các kinh điển nguyên thủy, hạnh bố thí của người tại gia được thuyết minh rất nhiều. Nhiều đệ tử Phật nổi tiếng về hoạt động từ thiện của mình như Trương giả Cấp Cô Độc ở thành Xá-vệ, hoăc trưởng giả Cù-sa ở Kiều-thưởng-di. Nhiều đại lễ tế đàn, hiến máu súc vật cho Thần linh, được Phật giải thích lại ý nghĩa chân thực của cầu nguyện và hiến tế, để rồi những đại tế đàn ấy chuyển hướng thành đại hội cứu tế xã hội.

Bố thí hay hoạt động từ thiện, theo lời dạy của Phật, bao gồm cả hai mặt tích cựctiêu cực, nói theo nghĩa tốt. Về mặt tiêu cực, là chi xuất tài sản của mình để chẩn tế những người cô khổ. Chi xuất nhiều như ông Cấp Cô Độc, cho đến hồi tài sản khánh kiệt. Sau đó, do chỉ giáo của Phật, và khuyến cáo của Tăng, ông phục hồi lại sản nghiệp. Và lại tiếp tục sự nghiệp cứu tế nữa.

Rõ ràng, theo lời dạy đó, Phật tử tại gia làm giàu, tích lũy tài sản, không phải chỉ để hưởng thụ cho mình hay thân thuộc của mình, mà còn để chia xẻ cho nhiều người, những kẻ hoặc thiếu may mắn, hay thiếu năng lực để tự cấp dưỡng. Cho nên, trong rất nhiều kinh, Phật dạy một Phật tử tại gia phải biết tích lũy sản nghiệp thế nào cho đúng pháp, và rồi chi dụng sản nghiệp ấy một cách hữu ích, cho mình và cho nhiều người, cho đời này và cho nhiều đời sau nữa.

Đằng khác, về mặt tích cực, hành vi bố thí của Phật tử tại gia chính là nhân tố để duy trì sự an lạc hiện tại cho xã hội. Như khi một người bà-la-môn đến hỏi Phật về nghi thức tổ chức đại tế đàn hiến tế và cầu nguyện thần linh sao cho có hiệu quả. Phật đã chỉ cho những điều nên làm trước hết để cho tế tự có hiệu quả thiêt thực.

Đó là, nếu cần đủ công quỹ cho tế đàn mà phải bắt dân đóng thêm thuế, và động viên sưu dịch, thì chỉ khiến cho dân đã nghèo khó lại nghèo khó thêm mà thôi. Điều nên làm bấy giờ là, vua hãy xuất thóc giống trong kho cho người làm ruộng gieo trồng, mở công xưởng cho những người muốn làm thợ, mở trường dạy nghề cho những người muốn học nghề, vân vân, nghĩa là làm sao cho dân chúng có an cư lạc nghiệp, sau đó mới nói đến chuyện tế tự.

Như vậy, nghĩa vụ tôn giáo chỉ có thể mang lại hiệu quả thiết thực, chỉ khi nào xã hội tương đối sung túcan lạc. Nếu trong một nước có nhiều người theo đạo Phật, mà nhân dân nước ấy không an lạc, xã hội không trật tự an ninh, đại bộ phần dân chúng còn sống trong nghèo khó, thế thì ở đó không thể gọi là đạo Phật hưng thịnh.

Nói tóm lại, chỉ trên căn bản thực hành bố thíPhật tử tại gia tự nâng cao phẩm chất đạo ñức của mình, thành tựu giới ba-la-mật. Rồi sau đó dần dần tiến tới thành tựu các ba-la-mật khác, như thiền địnhtrí tuệ. Đó là quá trình tu tập mà Phật đã chỉ dạy một cách rất rõ ràng, cụ thể. Còn hành trì như thế nào, tùy theo căn tánh dị biệt. Bởi vì, không phải tất cả mọi chứng bịnh đều có thể chữa trị hiệu quả bằng nhân sâm duy nhất

(*) Trích thư của Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ (Chùa Quảng Hương Già Lam) gửi Đại hội Cư sĩ Hải Ngoại

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9198)
Kinh đô ánh sáng, thành phố mộng mơ của Pháp quốc vào mùa hè năm nay đã là điểm hẹn của những người con Phật đa số là tỵ nạn từ bốn châu kéo về.
(Xem: 9862)
Sống ở đời tham lam ham hố Cuối cùng rồi cũng xuống lỗ mà thôi, Tranh danh đoạt lợi hại người Bạc vàng tích trữ lâu đài ngựa xe,
(Xem: 11171)
Ăn chay theo Phật giáo là một chế độ ăn uống chỉ gồm những thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật (trái cây, rau quả, v.v...), có hoặc không ăn những sản phẩm từ sữa, trứng hoặc mật ong...
(Xem: 9704)
Nhân quả là nói tắt của tiến trình nhân-duyên-quả. Nhân là tác nhân chính, duyên là những nhân phụ, quả là kết quả.
(Xem: 9226)
“Báo oán hạnh” là gì? Đó là hạnh chấp nhận những khổ đau, những chướng duyên như là những cuộc báo oán tự nhiên của luật nhân quả.
(Xem: 9965)
Xuất gia vốn đã khó, làm tròn bổn phận của người xuất gia lại càng khó hơn. Nhiều người nghĩ rằng đã đi tu, là Tỷ kheothanh tịnh, giải thoáthoàn thiện.
(Xem: 10015)
Nếu ý thức được tầm quan trọng của cuộc sống của mình, thì cũng phải hiểu rằng cuộc sống của kẻ khác cũng quan trọng như thế.
(Xem: 9200)
Pháp tu cho Tam quả lại đơn giản đến không ngờ, chỉ cần tu tập trọn vẹn ba pháp “các căn tịch tĩnh, ăn uống biết tiết độ, chẳng bỏ kinh hành” là có thể thành tựu ngay trong hiện đời.
(Xem: 13150)
Trong khi hiến tặng, ta tiếp nhận được biết bao nhiêu tặng phẩm của đất trời. Một giọt sương đầu ngọn cỏ, một bông hoa nở bên vệ đường, một ngôi sao lấp lánh buổi sáng khi ta mở
(Xem: 10081)
Sự khác nhau trong đường lối giữa Phật giáo và Vedanta trong trường hợp này thể hiệncon đường tu đạo, và cái đích của tu đạo.
(Xem: 10364)
Khi nhóm năm ẩn sĩ[i] rời bỏ Đức Thế Tôn, Ngài thấy đấy là điều hay vì từ bây giờ Ngài có thể tiếp tục thực tập không còn cản trở nào.
(Xem: 10822)
Đức Thế Tôn bảo “bình an thật sự” không cách xa, nó đang ở bên trong chúng ta, nhưng chúng ta thường không nhận ra nó.
(Xem: 8980)
Tất cả mọi loài sống là để đi tìm hạnh phúc. Bản năng gốc của mọi loài là tìm kiếm hạnh phúc.
(Xem: 10178)
Theo lời Phật dạy, chuyển một cái xấu – ở đây là gian dối- trở thành cái tốt, tức chân thật, là chuyển nghiệp. Nhưng chuyển nghiệp như thế nào đây?
(Xem: 10122)
Trong lộ trình nương tựa nhau để tu học, mỗi người cần nhanh chóng nhận ra ai là thiện tri thức để thân gần và ai là ác tri thức để tránh xa.
(Xem: 9250)
Đã làm người và được sống, bất cứ ai cũng đều có cảm giác khoái lạc hay khổ đau. Cảm giác có thể sảng khoái hay dễ chịu hoặc không nằm trong hai điều đó.
(Xem: 10930)
Tất cả các pháp hữu vivô thường. Đây chính là lời dạy của đức Phật và được Ngài lập lại nhiều lần. Lời dạy này cũng là một trong những lời di huấn cuối cùng của Ngài.
(Xem: 14972)
Tuổi trẻ không tu, già hối hận, Thân bệnh tật, tai điếc mắt mờ, Gối mỏi lưng còng, giờ suy yếu, Cuộc đời gây tạo, bao ác nghiệp
(Xem: 11691)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựngvô cùng mạnh mẽ
(Xem: 10022)
Sống đồng nghĩa với hành trình, hành trình với hành trang và phương tiện chính mình, hành trình đến những mục đích.
(Xem: 12572)
Câu ‘Tâm bình thường là Đạo’ phát sinh từ câu chuyện ngài Triệu Châu đến hỏi đạo ngài Nam Tuyền. Ngài Triệu Châu hỏi: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp “Tâm bình thường là đạo”
(Xem: 10788)
Khi trong đầu hiện ra tình cảm về ‘Tôi’, nhiều tế bào trong nhiều vùng khác nhau của não bộ trở nên năng động cùng một lúc và làm dao động hàng ngàn các tế bào não khác.
(Xem: 10310)
Kinh sách Phật Giáo thường so sánh Đức Phật như một vị Lương Y. Điều này hiển nhiên cho thấy việc chữa trị bệnh tật là tâm điểm của Phật giáo.
(Xem: 10656)
Có nhiều người nhận lầm học Phật, hiểu đôi điều về giáo lý Đức Phật là tu rồi, đây là một sai lầm lớn trong nhận thức, vì tu và học là hai phạm trù khác nhau.
(Xem: 10569)
Theo thuyết nhà Phật, có duyên mới tạo ra nghiệp, trả nghiệp sẽ có duyên cao hơn, cứ theo thế mà thoát ra khỏi luân hồi.
(Xem: 10435)
Mỗi ác nghiệp là tờ giấy nợ Trả hiện tại hoặc trong tương lai Vay nhiều thì nợ càng nhiều Nhân quả theo ta như hình với bóng
(Xem: 9904)
Thời gian qua nhanh, tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già, cái chết sẽ đến, không biết về đâu?
(Xem: 9192)
Hạnh nguyện độ sinh của Bồ tát Quán Thế Âm trong cõi Ta Bà giúp cho tất cả mọi người “quán chiếu cuộc đời” để đạt được giác ngộ, giải thoát.
(Xem: 9246)
Cuộc sống viên mãn của con người cần hội đủ hai phương diện vật chấttinh thần (tâm linh). Chúng phải song hành tồn tại nhằm hỗ tương lẫn nhau, giúp con người thăng hoa cuộc sống.
(Xem: 11168)
Với hành nguyện lắng nghe tiếng khổ, để đem niềm vui xoa dịu cho chúng hữu tình nơi thế giới hành đạo của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Chúng con, trên bước đường tìm cầu sự giác ngộ, cũng xin được học đòi đức tính thù diệu ấy.
(Xem: 9510)
Lòng tham con người như giếng sâu không đáy không bao giờ biết chán, biết đủ, biết dừng. Người có quyền cao chức trọng thì lợi dụng chèn ép, bóc lột kẻ dưới.
(Xem: 12973)
Bài này để nói thêm về tương quan giữa Phật học và nghệ thuật – các bộ môn như âm nhạc, thi ca, hội hoạ, tiểu thuyết, kịch, phim …
(Xem: 12532)
Ai cũng thích được tán dương, khen ngợi, ai cũng thấy dễ chịu với những lời khen, dù bản thân không đúng hoặc đúng rất ít với lời khen đó.
(Xem: 9056)
Khi được khen ta cũng chớ vội mừng và khi bị chê ta cũng chớ vội buồn. Nếu ta vội mừng hay buồn như vậy thì tâm mình rất dễ bị dao động, khi bị dao động ta sẽ bất an.
(Xem: 9467)
Từ Thứ Năm tới Thứ Hai, ngày 6 tới 10 tháng 8 năm 2015, Khóa Tu Học Phật Pháp Bắc Mỹ Lần Thứ 5 sẽ diễn ra tại Khách Sạn Town and Country Resort Hotel, Thành Phố San Diego
(Xem: 9501)
Thiền sư xuống núi. Một túi vải đơn sơ với y áo và dăm cuốn kinh đã lật nhăn cả giấy...
(Xem: 9461)
Ý nghĩa tích cực của giải thoát là sống ràng buộc giữa các mối quan hệ nhưng ta có tự dotự tại.
(Xem: 9037)
Sân hậnthù oán là hai trong số những người bạn gần gũi nhất của chúng ta. Khi còn trẻ, tôi đã có một mối quan hệ rất gần gũi với giận dữ.
(Xem: 8861)
Bồ-tát Quán Thế Âm luôn hiện thân trong mọi trường hợp để tùy duyên giúp đỡ, cứu khổ cho người. Đã làm người trong trời đất, ai không một lần lầm lỗi, vấp ngã, khổ đau.
(Xem: 10214)
Giảng Pháp và thính Pháp là những Pháp sự không thể thiếu trong chương trình tu học của các tự viện đúng nghĩa.
(Xem: 8503)
Nguyên tác: The Five Trainings for Bodhichitta Resolve, Tác giả: Alexander Berzin/ Moscow, Russia; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 8196)
Khi những hiện tượng được phân tích một cách riêng lẻ như vô ngã, và những gì đã từng được phân tích trên thiền quán, đấy là nguyên nhân cho việc đạt đến hoa trái, niết bàn.
(Xem: 15402)
Đức Phật có dạy đừng tìm về quá khứ, vì quá khứ đã qua rồi, đừng tìm về tương lai, vì tương lai chưa tới, hãy an trú trong hiện tại.
(Xem: 10656)
Những câu chuyện thật chốn Thiền môn do các bậc trưỡng lão kể lại luôn luôn là những bài học hay nhất, là nguồn động lực lớn nhất cho các thế hệ mai sau noi gương ...
(Xem: 10661)
Đối với Thế Tôn sự sở hữu tài sản vật chất tiền bạc, ruộng vườn, nhà cửa…, chưa thật sự là người giàu có, sự giàu có đó vẫn nằm trong vòng lẩn quẩn của sự đau khổ, luân hồi chi phối.
(Xem: 8793)
Ai biết nỗ lực, siêng năng, tinh cần học hỏi, quyết chí vươn lên sống không ỷ lại nhờ vã người khác, thì người này nếu đầy đủ phước báu sẽ thành tựu trong nay mai.
(Xem: 8866)
Vì tự nguyện, cố nhiên họ hạnh phúc với chọn lựa của họ. Cơm ăn áo mặc không bận lòng. Ba y thô sơ, đắp đổi ngày tháng. Một bình bát dạo khắp muôn nhà.
(Xem: 8459)
Người đời khi gặp quả xấu đến, nếu không oán trời trách đất cũng đổ thừa tại gia đình người thân hay xã hội, ít ai nghĩ đến nhân quả công bằng mà sinh lòng ăn năn hối cải.
(Xem: 11980)
Theo tinh thần từ binhân bản của Phật giáo, người cư sĩ sau khi ly hôn hay người bạn đời chết đi thì có thể tái hôn bình thường.
(Xem: 10733)
Đức Phật bình đẳng giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán, không oán giận kẻ hại mình mà còn khoan dung độ lượng để họ cải tà quy chánh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant