Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mặt trăng thứ nhất

02 Tháng Năm 201100:00(Xem: 13958)
Mặt trăng thứ nhất

MẶT TRĂNG THỨ NHẤT

Cao Huy Thuần

Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời. 

Trăng là đề tài ruột của các thi sĩ từ khi con người biết làm thơ. Nhưng các vị có thấy mặt trăng hơn tôi không, hay các vị cũng chỉ phóng hai cái răng lên mặt trăng? Trong mối quan hệ giữa người ngắm trăng và trăng được ngắm, có bao giờ mặt trăng hiện hữu như nó đang chiếu hay chỉ là một vật được người làm thơ mượn tạm để nói lòng dạ của mình? Ðem lòng nhìn cảnh hay mượn cảnh để nói lòng, mặt trăng chẳng phải đều được thấy qua tưởng tượng cả đấy sao? Càng tưởng tượng "nên thơ", trăng càng xa với trăng thật. Xa như thế, nó đâu còn đấy nữa; nó không có. Trăng đã không có, làm sao nói được có người ngắm trăng? Cả hai đều không có. Trăng không có, vì đó là trăng trong mộng. Người đang sờ sờ ra đấy mà cứ trố mắt vào mộng, ấy là người ảo. Có lẽ ông Lý Bạch đã chứng nghiệm được điều đó. Ông say rượu, thấy trăng trong nước đẹp quá, nhảy xuống ôm chị Hằng. Chị Hằng không có, nên ông chỉ ôm thủy thần. Ông cũng không có nốt vì ông say, ông đang là Lưu Linh.

Trong sự thưởng ngoạn rất chủ quan của tôi về trăng trong thơ, tôi tự hỏi: có chăng trong thơ một mặt trăng thật và một người ngắm trăng thật? Thơ có làm được chuyện phi thường đó không? Ðặt câu hỏi như thế tức là tôi ám chỉ rằng trăng trong thơ thường là mặt trăng thứ hai, mặt trăng đến sau mặt trăng nguyên thủy. Tôi thử đọc lại những bài thơ mà tôi đã thích trong thơ Ðường và Nguyễn Du để xem tôi nghĩ như thế có đúng không. 

Dễ minh chứng cho tôi nhất là bài "Tĩnh dạ tứ " quen thuộc của Lý Bạch:

Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Ðê đầu tư cố hương

"Minh nguyệt" trong câu đầu không phải là "minh nguyệt" trong câu thứ ba. Trong đêm thanh vắng, bỗng mắt Lý Bạch chạm phải ánh trăng trên đầu giường. Có thể ông đang ngủ thiếp, chợt thức giấc, bắt gặp trăng. Trong nhận thức đầu tiên của ông, ông ngỡ ánh trăng là sương phủ mặt đất. Ông ngẩng đầu nhìn trăng, và ông cúi đầu... Lập tức vầng trăng thứ hai hiện ra trong nỗi nhớ nhung quê cũ của ông. 

Cũng vậy, Triệu Hổ đứng trên lầu bâng khuâng nhìn trăng trên sóng nước. Trăng sáng như nước, nước sáng như trời. Bất giác, ông nhớ người cũ cùng ngắm trăng với ông năm trước. Cảnh cũ còn đây, người cũ đâu rồi? 

Ðộc thượng giang lâu tứ tiểu nhiên
Nguyệt quang như thủy, thủy như thiên
Ðông lai ngoạn nguyệt nhân hà tại?
Phong cảnh y hi tự khứ niên

"Nguyệt" trong câu thứ hai cũng không phải là "nguyệt" trong câu thứ ba. Cũng vầng trăng đó, nhưng trăng năm này, trăng trước mắt, vầng trăng đang làm lung linh trời nước một màu kia, phút chốc đã bị vầng trăng năm ngoái truất phế. Ðây là mặt trăng-thời gian, trăng quá khứ. Giống như trăng của Lý Bạch khi ông triết lý: người thời nay không thấy trăng thời xưa, nhưng trăng thời nay đã từng chiếu người thời xưa:

Kim nhân bất kiến cổ thời nguyệt
Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân

Ông nói như thế để làm gì? Ðể chuốc rượu! Bạn không uống rượu thì ta xin hỏi: trăng còn mãi đấy, người xưa có còn đấy không? 

Quân nhược bất ẩm tửu
Tích nhân an tại tai?

Cũng mặt trăng-thời gian, nhưng bây giờ nó chạy tới phía trước, bay vèo vào tương lai. Trong "Nguyệt Dạ" của Ðỗ Phủ, một khuê phụ xa chồng đứng ngắm trăng khuya trước sân. Sương móc thơm của đêm trăng làm ướt mớ tóc mây. Ánh trăng trong giãi trên đôi tay ngọc giá lạnh: 

Hương vụ vân hoàn thấp
Thanh huy ngọc tý hàn

Trăng vừa chiếu trên tay ngà thì chớp mắt đã bay vào tương lai để chiếu trên má cô gái vừa khô nước mắt biệt ly:

thời y hư hoảng
Song chiếu lệ ngân can?

Biết ngày nào đôi ta được tựa màn cửa trống, cùng ngắm trăng chiếu sáng đôi ngấn lệ khô?

Khuê phụ ngắm trăng nhớ chồng chinh chiến phương xa là một hứng lớn trong thơ Ðường. Trăng bây giờ trở thành trăng-không gian, vầng trăng thứ hai đang soi bóng chồng ở xa. Trích dẫn thì nhiều quá, mà e chưa chắc đã tài hoa bằng Kiều của ta:

Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường

Ðâu có chinh phụ thì đấy có trăng-không gian. Chinh phụ ngâm chiếu những vầng trăng nhớ nhung như thế. 

Có khi mặt trăng thứ hai vừa sáng trong thời gian vừa sáng trong không gian. Mắt của Lý Bạch đã nhìn như vậy:

Bất hướng Ðông sơn cửu
Tường vi kỷ độ hoa
Bạch vân hoàn tự tán
Minh nguyệt lạc thùy gia

Tôi chọn bản dịch của Ngô Tất Tố vì dịch rõ nhất ý đó:

Non Ðông xa cách bao xuân
Cây tường vi đã bao lần nở hoa
Mây xưa hẵn vẫn bay xa?
Trăng xưa biết rụng xuống nhà ai nao?

Dù là thời gian hay không gian, mặt trăng thứ hai đó chiếu từ xa, rất xa. Có những mặt trăng thứ hai chiếu gần, rất gần, gần như một người bạn. Và bởi vì ngày xưa người bạn nhiều khi gần hơn cả người tình, trăng-bạn hiện ra rất nhiều trong cổ thi. Trăng đó bồi hồi với Lý Bạch khi ông ca múa với bóng ông và bóng trăng (ngã ca nguyệt bồi hồi), trăng đó đi theo ông từ trên núi khi chiều hôm ông bước xuống lưng đèo (mộ tòng bích sơn hà, sơn nguyệt tùy thân quy), trăng đó không rời ông già Ðỗ Phủ sống cô quạnh trong xóm nhỏ ven sông: khi ông cuốn rèm trăng vẫn ngó theo ông, khi ông chống gậy trăng vẫn theo bên mình:

Thu nguyệt nhưng viên dạ
Giang thôn độc lão thân
Quyển liêm hoàn chiếu khách
Ỷ trượng cánh tùy nhân

Tròn vành vạnh trăng thu trên trời là vầng trăng thứ nhất. Nó xuất hiện trước mắt ông lão. Trăng ngó theo ông, trăng đi theo ông là vầng trăng thứ hai. Bởi vì nó đã trở thành người bạn. Vầng trăng-bạn đó, cảm động thay, từ xa vẫn đến thăm Nguyễn Du lúc ông cùng đường, suốt ba mươi năm, dù chân trời góc biển:

Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến
Hải giác thiên nhai tam thập niên

Nguyễn Du ôm bệnh, ôm tấc lòng riêng, thường thao thức suốt đêm, canh một nghe tiếng trống, tiếng ốc, canh năm nghe tiếng gà, suốt đêm nghĩ quẫn nghĩ quanh, thế mà lạ quá, nhìn ra ngoài, trăng vẫn sáng với ông: lạ quá, làm sao trăng sáng đầy trời thế mãi trong khi gió tây thổi lạnh ngăn ngắt vào mình? 

Sơn canh cổ giác ngũ canh
Chung dạ bồi hồi tứ chuyển
Minh nguyệt mãn thiên hà cố cố
Tây phong xuy ngã chính thê thê

Nguyễn Du ngã bệnh liên miên trong thơ. Buổi sáng lạnh, ông soi gương thấy mình gầy và già. Ðêm thanh vắng, cửa tre đóng kín, ông nằm rên. Bệnh cũ mười năm không ai hỏi han, tìm đâu ra thuốc tiên luyện chín lần để uống? Trong tình cảnh như vậy, ông nhìn trăng thế nào đây? Ông muốn trăng trên trời xuất hiện ngay trườc cửa để ánh sáng dọi xuống xua tan mọi bóng tối: 

An đắc huyền quang minh nguyệt hiện
Dương quang hạ chiếu phá quần âm

Trăng-bạn thường soi chiếu như thế ở câu cuối của Nguyễn Du sau những than thở, sụt sùi, lạnh lùng, cô đơn, yếu đuối, tơ vò trăm mối, lữ thứ cùng chân:

Không ốc lậu tà nguyệt
Chiếu ngã đan thường y.

Nhà trống, ánh trăng xế lọt vào, chiếu xuống tấm áo đơn của ta. Câu cuối của Ðỗ Phủ cũng vậy, sau khi ôm gối không ngủ được, nằm nghe vượn hú, kèn ngân. Không bi thương như Nguyễn Du, Ðỗ Phủ chợt bắt gặp ánh trăng xuyên qua những dây leo giãi trên mặt đá, chiếu sáng đám hoa lau trước bãi sông:

Thỉnh khan thạch thượng đằng ba nguyệt
Dĩ ánh châu tiền lô địch hoa

Những ánh trăng xuất thần như vậy có khi hiện ra giữa bài thơ, nhưng đây không phải là những bài thơ mang chủ đề về trăng. Quái lạ, khi trăng đột xuất ở giữa bài thơ, trong một câu thôi, nó thường rất thật, rất gần với mặt trăng thứ nhất mà tôi sẽ nói ở phần sau. Ðây là trăng của Ðỗ Phủ soi vào lông chim khiến con chim đang ngủ cứ xoay mình luôn (minh phiên túc điểu tần). Ðây là trăng Hoành Sơn của Nguyễn Du lóng lánh trên vó ngựa vỗ đường vào Huế bệ kiến (cố quốc thiềm tùy mã hậu minh). Trăng hiện ra đột ngột rồi biến ngay mất, chưa kịp tạo cơ hội cho tưởng tượng vẽ vời của vaàng trăng thứ hai.

Ấy là trăng trong thơ cổ. Bây giờ tôi sẽ xem mặt trăng thứ hai hiện ra như thế nào trong một bài thơ mới. Tôi chọn bài thơ của Hàn Mặc Tử mà học trò chúng tôi ngày trước thuộc làu làu vì mê quá. Bài thơ làm giữa lúc thơ mới vừa đại thắng thơ cũ, lời thật mới nhưng ý vẫn còn thấp thoáng bóng dáng những khuê phụ trong thơ Ðường và cô gái xuân của Lý Bạch e thẹn, rạo rực, hỏi nhỏ gió xuân: cớ sao gió chẳng biết gì lòng dạ của nhau mà thổi vào tận trong màn thiếp như thế này? Hà sự nhập la vi? 

Tôi sẽ đọc từng đoạn:

Trăng nằm sóng soải trên cành liễu
Ðợi gió đông về để lả lơi

Nằm sóng soải… Các quyển từ điển cắt nghĩa: sóng soải là nằm thẳng dài người ra. "Sóng soải" gợi hình ảnh một thân thể nằm thuỗn ra, duỗi tay duỗi chân. Ta nói: nằm sóng soải trên giường, trên phản, trên bãi cát… Ai nhìn một người nằm sóng soải sẽ thấy đập vào mắt một cái lưng dài, tay dài, chân dài. Sóng soải gợi chiều dài. Mà mặt trăng thì không dài! Nó tròn! Làm sao nó nằm sóng soải được! Mặt trăng nằm tròn như bào thai nằm trong bụng. Không ai nói bào thai nằm sóng soải trong dạ con! Huống hồ, để có thể sóng soải, cái lưng, hai tay và đôi chân cần phải có một mặt bằng thênh thang để duỗi ra thoải mái, vươn ngón chân, móng tay đến vô tận vô biên. Thế mà mặt trăng ở đây nằm sóng soải trên cái gì? Trên một nhánh liễu! Trên một sợi lông mày! Một hình tròn nằm sóng soải trên một đường tơ! Lấy luận lý bình thường mà nói, đáng lẽ nhà thơ phải viết: cành liễu nằm sóng soải trên mặt trăng mênh mông! 

Có lẽ cũng phải dẹp luận lý bình thường qua một bên để đọc câu thơ tiếp theo: Ðợi gió đông về… Ai đợi gió đông về? Cứ theo cách đọc bình thường thì đó là trăng. Nhưng ai cấm tôi đọc một mạch từ câu thứ nhất qua câu thứ hai không ngắt quãng: cành liễu đợi gió đông về… Tôi có nhiều lý lẽ để biện minh cho cách đọc không bình thường của tôi. Giữa mặt trăng và cành liễu, ai có tương quan nhiều với gió hơn ai? Chắc chắn phải là cành liễu. Gió chỉ có tương quan với mây, gió thổi mây bay và do đó dường như trăng trôi. Nếu có ai nói: gió thổi trăng trôi, thì tương quan giữa gió với trăng cũng chỉ là tương quan gián tiếp. Còn cành liễu với gió thì tình nhân với nhau từ thuở trái đất mới sinh. Bởi vậy cành liễu mới đợi gió đông. Gió làm lay động cành liễu, chúng nó đùa bỡn với nhau, lắm khi cợt nhã. Vậy thì ai "lả lơi"? Ai đợi gió đông về để lả lơi nếu không phải đích danh thủ phạm là cành liễu? 

Ấy thế mà ai đọc câu thơ cũng nghĩ rằng trăng đợi gió và cái thói lẳng lơ hoa nguyệt là cái nết đánh chết không chừa của trăng. Vì lẳng lơ như vậy cho nên trăng mới có một thân hình, có tay, có chân, có lưng để nằm và naèm sóng soải. 

Nhìn trăng và thấy trăng nằm trong cái thế chờ đợi rất khêu gợi đó, vạn vật trong hai câu thơ tiếp theo nín thở như chính mình rợn người trong hoan lạc của phút giây chờ đợi:

Hoa lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi!

Nói là vạn vật vì có hoa lá, kỳ thực đây là chuyện trò tâm sự của một cô gái không thể nói với ai khác những rung động bí ẩn của mình ngoài trăng sáng một cách vô tư trên trời. Trăng thì vẫn tròn thế thôi, nhưng những rung động thầm kín của cô gái khiến cô thấy trăng nằm gợi tình như chính cô ước muốn được nằm như thế. Và hơn thế nữa, hơn thế nữa, cô thấy trăng đang cởi xiêm y và vạn vật nín lặng nhìn trăng nhúng thân thể nõn nà trong nước:

Trong khóm vi lau rào rạt mãi
Tiếng lòng ai nói sao im đi?
Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe

Nếu lại đem luận lý thường tình để đọc bài thơ thì quả thật nhà thơ trước sau không như một. Ông vừa mới nói hoa lá đều ngây tình cả không muốn động ở câu trên thì ở câu dưới ông nghe khóm vi lau kia cứ rào rạt mãi như ai nói chuyện. Rào rạt mãi, tức là gió cứ thổi hoài. Sao câu trên lại nói hoa lá không muốn động, và câu trên nữa lại nói trăng đợi gió đông? Có gió hay không có gió? Không có gió thì không thể có rào rạt. Có gió thì sao rào rạt lại im đi? Tôi giận lắm nếu có ai bắt bẻ hành tỏi bài thơ như vậy. Bắt bẻ như vậy là chẳng thưởng thức gì hai chữ ô kìa thần tình. Có thể lúc đó gió đã thổi rồi. Nhưng gió đang thổi cũng im để trố mắt nhìn trăng như cô gái đang trố mắt nhìn ai như chính mình đang trần truồng trong bóng nguyệt. 

Thi hứng của Hàn Mặc Tử đẩy ông vào chốn buồng the của thơ Ðường. Ðúng là gió đã thổi, và gió đông mà trăng chờ đợi bây giờ lân la trên má cô gái như thử chính cô đợi gió đông về:

Vô tình để gió hôn lên má
Bẽn lẽn làm sao lúc nửa đêm
Em sợ lang quân em biết được
Nghi ngờ tới cái tiết trinh em

Tiết trinh thì thơ cổ nói nhiều rồi. Cái tiết trinh thì chỉ Hàn Mặc Tử dám nói. Chữ cái biến trừu tượng thành cụ thể. Nó cụ thể hóa nỗi bẽn lẽn của cô gái. Nó đưa nỗi bẽn lẽn đó vào hoang tưởng của một vết thương êm ái nằm sâu trong tiềm thức của cô thiếu nữ. Chính nó đã lột trần truồng mặt trăng. Mặt trănghóa thân của cái đó.

Vậy thì thế nào là mặt trăng thứ nhất? Tôi thử tìm trong thơ Nguyễn Du vì Tố Như là người tình của trăng. Tôi dừng lại rất lâu với bài "Ðạo Ý" và tôi ngỡ tôi thấy trăng của tôi trong đó, nhưng vẫn chưa phải. Tôi đọc bài thơ:

Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh,
Tỉnh thuỷ vô ba đào.
Bất bị nhân khiên xả,
Thử tâm trung bất dao.
Túng bị nhân khiên xả,
Nhất dao hoàn phục chỉ.
Trạm trạm nhất phiến tâm,
Minh nguyệt cổ tỉnh thủy.
Quách Tấn dịch như sau:
Trăng trong lòng giếng cổ,
Nước giếng không ba đào.
Chẳng bị người khuấy động,
Lòng nầy không chút xao.
Dù bị người khuấy động,
Xao rồi trở yên lặng.
Vằng vặc một mảnh lòng,
Giếng trong trăng giọi bóng.

Bài thơ tuyệt diệu. Nhưng đây là ý về lòng, ý về trăng, mượn trăng để diễn ý, không phải mặt trăng đang chiếu trên trời. Tôi ngắm rất lâu trăng tròn trong lòng giếng và tôi ngần ngại: hay đây cũng là trăng thật, thật đâu kém trăng trên trời? Thế nhưng, lòng này không chút xao làm hiện người giữa lòng giếng, không phải trăng. Người là thật, lòng là thật, tâm là thật; trăng là hình, là ảnh, là bóng, là ẩn dụ. Trong mối quan hệ giữa người và cảnh, cảnh bay trọn vào lòng người, vào nội tâm.

Làm thế nào để người đừng nuốt cảnh, cảnh đừng nuốt người, cảnh với người đều hiện hữu, nhưng không phải tách biệt ra làm hai? Tôi muốn tìm thấy trong thơ cảm giác kinh ngạc của tôi khi trực diện với mặt trăng trong những lúc bất ngờ nhất: thức giấc giữa khuya nhìn qua cửa sổ, bước ra vườn đêm nhìn lên mái nhà, quanh co đường đèo nhìn lên đỉnh núi… Trăng bất thần hiện ra, rạng rỡ, sáng quắc. Mắt của nó và mắt của tôi như chạm nhau, sững sờ, không nói được. Thơ có nói được thay tôi không? 

Trong thơ Ðường, có lẽ Vương Duy là người gần tôi nhất trong cảm nhận đó. Mỗi lần thấy trăng ló ra là tôi nghĩ đến bài "Tiếng chim trong khe núi". Tôi nói: tôi thấy trăng ló ra. Tôi không nói: tôi nhìn trăng ló ra. Ta nhìn, ta ngắm trăng trên trời, nhưng ta không ngắm trăng khi nó ló ra. Khi đó, ta chỉ thấy. Cái thấy đến bất chợt. Sau đó, mặt trăng từ từ lên và ta ngắm, ta nhìn. Có lẽ Vương Duy muốn diễn tả cái thấy nguyên thủy đó của ông chăng?

Nhân nhàn, quế hoa lạc
Dạ tĩnh, xuân sơn không
Nguyệt xuất, kinh sơn điểu
Thời minh xuân giản trung

(Người nhàn hoa quế rụng
Ðêm tĩnh núi xuân không
Trăng hiện chim kinh hãi
Rộn kêu giữa khe xuân)

Ðêm thật yên trước khi trăng lên. Người yên, cảnh vật yên. Yên lặng tuyệt đối của vũ trụ trước một mầu nhiệm sắp ra đời. Yên lặng tuyệt đối? Tại sao hoa quế rụng? Trong mấy chục năm trời tôi ăn ngủ không tròn với mấy cánh hoa quế này. Nó rụng như thế là nó yên hay không yên? Câu thứ hai của bài thơ, dạ tĩnh, là đêm tĩnh hay không tĩnh? Bỗng tôi hiểu được yên lặng tuyệt đối của Vương Duy khi đọc một câu thơ thiền:

Gió thoảng qua rồi, hoa rụng cánh

Vương Duy nhuần nhuyễn đạo Phật, chắc không xa ý đó chăng? Ai nghe một tiếng vạc kêu trong đêm khuya mới thấy đêm sâu như thế nào. Buổi trưa thiếu tiếng gà làm sao nghe được im lắng mênh mang của nắng hạ? Làm sao ai biết một chút gió nhẹ đã thoảng qua và đã xa mất nếu hoa không rơi một cánh? Không có gió đó nữa lấy gì ý thức về gió nếu không làm động cánh hoa? Không có động làm sao có tĩnh? Vậy thì, trong câu thơ, cả gió nhẹ cũng đã thoảng qua rồi, vũ trụ yên lặng tuyệt đối chờ đợi mầu nhiệm

Nguyệt xuất! Khe núi! Trăng! Chim! Giật mình! Kinh sợ! Kêu! Giữa im lặng của hoa rụng và kinh sợ của chim núi, giữa khe núi và trăng chiếu, tuyệt nhiên không có trung gian - không thời gian, không không gian, không ý niệm, không tình cảm, không ẩn dụ, không có lòng, không có ý, không có tâm, không có gì cả. Không có gì cả cho nên mặt trăng nguyên thủy hiện nguyên hình. Ai muốn hiểu cái chốn rỗng không của thiền có lẽ sẽ hé thấy ở đây chăng? 

Trong bài thơ, tất cả đều là cảnh; người chỉ có mặt ở hai chữ nhân nhàn. Nghiệm cho cùng, ngay hai chữ đó cũng có thể bỏ, bời vì Vương Duy ở đây rỗng không. Nếu ông không vứt bỏ đi được tất cả bận rộn, khuấy động trong lòng ông, chắc chắn ông không nắm bắt được cái rỗng không vô thời gian, vô không gian của cảnh. Ở đây, không có trung gian giữa cảnh với người bởi vì không có trung gian giữa Vương Duy với chính ông. Tâm ông rỗng không. Vì tâm ông rỗng không cho nên trong đó mới chiếu được vầng trăng nguyên thủy

Tôi yêu nước giếng thanh tịnh của Nguyễn Du bao nhiêu thì tôi yêu mặt trăng hiển lộ của Vương Duy bấy nhiêu. Một bên chuộng tĩnh. Một bên gợi động. Nhưng động với tĩnh có bao giờ là hai với nhau đâu, chúng nó ở trong nhau. Giếng nước của Nguyễn Du có khuấy cho nên mới có lắng. Con chim của Vương Duy có ngủ cho nên mới giật mình. Nếu chỉ có thanh tịnh mà thôi thì đó là cõi chết. Thiền chỉ có mặt ở đâu có ba đào. Cho nên trong nhiều bài thơ thiền về trăng, động và tĩnh thong dong qua lại với nhau. Tôi đọc một bài:

Bóng tre lướt trên hè
Không phủi một hạt bụi
Trăng dọi sâu đáy khe
Không làm nhăn mặt nước

Nước cũng không làm trăng ướt! Thong dong qua lại giữa động và tĩnh là trăng của thiền. Mà trăng đó cũng là trăng thật. Ai nhìn trăng trên trời mà không thấy trăng thong dong. Thong dong, nó chiếu ánh sáng đến vô tận. Nó chiếu ánh sáng thế kia, ai dám nói nó tĩnh? Nó thong dong thế kia, ai dám nói nó động? 

Trăng thu chiếu sáng mênh mông
Càng đi xa
Trăng càng đi xa nữa
Xa mãi trên bầu trời xa

Chiếu sáng khắp vũ trụ, trăng cũng thong dong chiếu sáng trong một giọt sương. Nơi một giọt sương, có vô tận ánh trăng trong vũ trụ. Vô tận ánh trăng trong vũ trụ long lanh trong một giọt sương. Giữa một và vô tận, giữa vô tận và một không có trung gian, không có chướng ngại. Ai dám bảo đó không phải là trăng thật? Không phải là vầng trăng thứ nhất? 

Cuộc đời
Ví thế nào?
Một giọt nước
Rơi
Từ miệng con chim đêm
Phản chiếu ánh trăng

Rất tĩnh. Nhưng hãy nhìn giọt nước đang rơi. Vô tận ánh trăng trong vũ trụ đang rơi. Trăng trong thơ thiền là trăng của cái phút chốc trước mắt và chỉ có trăng trong cái chớp mắt chưa bị ô nhiễmý niệm mới là trăng nguyên thủy mà thôi. 

Tôi không thể nói gì thêm nữa và đáng lẽ phải chấm dứt ở đây. Nhưng tôi yêu Nguyễn Du quá, nên tôi muốn yêu thêm nữa một bài thơ của ông trong đó có chữ một. Ở trên, tôi vừa nói một và vô tận thong dong qua lại trong trăng của thiền. Tương quan đó được diễn tả nhiều lắm trong thơ thiền mà đây chỉ là một ví dụ:

Khuất sau núi lam
Vượn bồng con về ngủ
Trên mõm đá xanh biếc
Con chim dừng cánh
Miệng ngậm một nhánh hoa

Tất cả vũ trụ thu vào trong một, một cánh hoa, trở thành trọng tâm của bài thơ, thổi tất cả sức sống vào bài thơ. Ðêm trước sân cười một nhánh mai của Mãn Giác nằm trong tứ thơ đó. Nguyễn Du cũng thổi chữ một như thế vào bài "Dạ Hành":

Lão nạp an miên Hồng Lĩnh vân
Phù âu tĩnh túc noãn sa tân
Nam minh tàn nguyệt phù thiên lý
Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân

(Vị sư già ngủ ngon trong mây núi Hồng
Chim âu cũng nằm yên trên bãi cát ấm
Bóng trăng tàn dập dờn trên biển nam xa nghìn dặm
Trên lối cũ gió lạnh dồn cả vào một người) 

Nguyễn Du sử dụng tài tình tĩnh và động, bao la và đơn chiếc. Vị sư già ngủ, mà ngủ trong mây. Sóng vờn trăng ở biển xa, xa thẳm. Tất cả đều ngủ yên, kể cả trăng cũng sắp đi ngủ vì trăng tàn. Trong cảnh mênh mang, tịch lặng đó, bỗng một chấm người di động trong cơn gió, gió ở đâu như ở khắp trần gian dồn thốc tất cả khí lạnh vào mặt. Cái chấm nhỏ đó là cái thần của bức tranh. Nó nhỏ xíu, nhưng nó vác trên vai tất cả bi ai của kiếp người.

Ở xa quê, có lần nào đi một mình giữa phố khuya mà câu thơ của Tố Như không chiếm trọn lòng tôi! Nhưng may quá, tôi học được rồi: ở đâu có ba đào thì ở đó mới có thiền, ở đâu có bi ai thì ở đó mới có an vui, ở đâu có tàn trăng thì ở đó mới thấy "trăng tàn mà lại bằng mười rằm xưa". Cùng bắt đầu bài thơ với tĩnh lặng như Nguyễn Du, hãy xem câu cuối của thiền tổ Ðạo Nguyên khác biệt như thế nào: 

Bãi sông sóng lặng
Trong cây gió yên
Thuyền ai ngủ bến
Trăng tròn nửa đêm
Trăng sáng vằng vặc

Bao nhiêu động! Bao nhiêu sáng! Mà tự nhiên, bình thường, không vướng mây cũng không làm vướng bầu trời. Trăng thong dong trong bầu trời rỗng không, người thong dong trong tấm lòng rỗng không, giữa hai rỗng không như vậy khi gặp nhau, cảnh nào hiện ra, dù bên ngoài hay trong lòng, mà chẳng phải là mặt trăng thứ nhất?

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13732)
Mưa thật nhiều suốt đêm qua, những ánh chớp loé sáng, vẫy vùng trên bầu trời như rượt đuổi nhau với những nụ cười sáng rực. Mưa trút xuống dù không mời gọi, như réo rắc...
(Xem: 13899)
Trăng thì vằng vặc trên cao, trên bầu trời, sáng đẹp. Nhưng, trăng của tấm lòng, của chân tâm, thật là gần gũi, bình dị, trong sáng, thanh tịnh, không một gợn sóng mây...
(Xem: 14367)
Thuở xưa, khi Phạm Dự (Brahmadatta) là vua nước Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh vào đời làm một chú Linh Dương sống trong một bụi cây gần bên hồ nước ở trong cánh rừng.
(Xem: 15164)
Trong học tập cũng như trong công việc, lười biếng, thiếu ý chí, thiếu kiên định là những nguyên nhân đưa đến sự thất bại. Khó tìm đâu trên cõi đời này một người có được thành công mà người đó là một kẻ lười biếng...
(Xem: 18064)
Mình có một đôi chân vững chãi, một đôi mắt sáng và một tấm lòng trong, hãy nương tựa vào mình. Đôi bàn chân sẽ cho bạn phương tiện đi tới...
(Xem: 15152)
Dạo ấy, vào khoảng cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, Phật học viện Trung phần Hải Đức tại Nha Trang thấy cần phải mở rộng việc đào tạo tăng tài.
(Xem: 14665)
Thời đại ngày nay, trong chúng ta ai mà lại không bận rộn, ai mà lại có dư thì giờ đâu bạn nhỉ? Mặc dù đôi khi tôi cứ nghĩ là chúng ta chỉ tự tìm cho mình sự bận rộn mà thôi!
(Xem: 17868)
Đời như cơn gió bên thềm, mênh mông, vô định. Có cái gì là của mình đâu mà trói buộc? Cứ nhẹ nhàng thôi, như gió bên thềm vậy...
(Xem: 20700)
Sự vững chãi của bạn là một điều nhiệm mầu. Bởi có rất nhiều người đang tin vào bạn, họ sẽ vững chãi theo và niềm tin ấy miên viễn trong tâm thức...
(Xem: 19503)
Xuất gia có nghĩa là ra khỏi nhà, rõ hơn là ra khỏi căn nhà mình đang ở; dứt khoát bỏ mà đi khỏi căn nhà mình đang được chở che bảo bọc, hay đang bị ràng buộc, hệ lụy vương mang.
(Xem: 17069)
Tình yêu không làm cho ai khổ đau, nhưng ở trong đời có quá nhiều người bị khổ đau bởi tình yêu là do trong tình yêu của họ có nội dung của khao khát, chiếm hữu, riêng tư và tình dục.
(Xem: 15723)
Sau bữa ăn trưa, tôi hỏi một vị Tăng sĩ trẻ, Thầy đã ăn xong chưa? Vị ấy trả lời - dạ! con đã ăn xong. Tôi cười và nói, Thầy chưa ăn xong đâu, ngày mai Thầy lại tiếp tục ăn lại...
(Xem: 17142)
Trong đời sống hàng ngày, ta cố ý nói sai sự thật để đánh lừa người khác là chính ta không những chỉ phá hoại và làm thương tổn lời nói của ta, mà chính ta còn làm thương tổnphá hoại sự hiểu biết và nhân cách của ta nữa.
(Xem: 15877)
Bạn biết không? Mọi niềm vui xảy ra trong thế gian đều dẫn đến hậu quả của thất vọng và khổ đau. Tại sao? Vì lòng tham của con người đối với các lạc thú thế gian là vô hạn...
(Xem: 15186)
Sống giữa đời, ai cũng mưu cầu một vài niềm hạnh phúc. Hạnh phúc được xem nhưmục tiêu thiết yếu nhất mà loài người nói riêng và vạn loài tồn sinh khác nói chung hướng đến tìm cầu.
(Xem: 14952)
Trong cuộc sống có đôi khi chúng ta lầm tưởng, mọi thứ đều diễn ra quá êm đẹp và theo chiều hướng tốt để ta có thể đạt được cái mà chúng ta muốn có.
(Xem: 14971)
Có thể nói vạn vật hữu hình khó đứng vững và tồn tại trước những cơn thịnh nộ của bão tố. Thế nhưng, đôi khi đâu đó cũng có những cành hoa bé nhỏ yếu ớt đã sẵn sàng trụ lại sau những cơn cuồng nộ của tự nhiên.
(Xem: 17998)
Mỗi khi nghe đến mấy bài hát diễn tả những sinh hoạt nơi đồng quê, như cảnh gặt hái của ngày mùa, hay những buổi tối giả gạo dưới trăng tôi chợt nhớ đến quê tôi tha thiết.
(Xem: 15742)
Chúng ta luôn đặt ra cho mình rất nhiều mục tiêu, song trên bước đường theo đuổi chúng, phải chăng bạn đã đánh mất giá trị tự thân của cuộc sống? Lao đầu vào việc theo đuổi mục đíchtrở thành nô lệ của mục đích.
(Xem: 16706)
Việc con người chạy theo các dục, vì họ sống với các chủng tử tâm hành liên hệ đến vô minh, mọi sinh hoạt của họ là sinh hoạt trong bóng đêm, và ngay cả ánh sáng cũng chỉ là bóng đêm của họ mà thôi...
(Xem: 14403)
Khu vực tôi ở có một con đường hai hàng thông cổ thụ, tàn lá giao nhau như lọng che, vừa tạo nét đặc thù, vừa luôn luôn cho bóng mát.
(Xem: 14316)
Mùa hạ về… bao suy tư được trải nghiệm, bao ước vọng lại xâu kết bên lòng. Âm vang ngày hạ là nắng là hoa, là hương thơm từ đất, là hơi ấm từ bóng mặt trời lan tỏa.
(Xem: 16537)
Ông lão ăn xin nom thật tội nghiệp với một tay chống gậy, một tay run run cầm chiếc nón rách hướng về phía chị, giọng thều thào...
(Xem: 17397)
Những làn sóng biển đùa chơi với nhau và cùng nhau chạy vào bờ chạm lên cát trắng, rồi tan biến vô sự giữa trời nước mênh mông. Sóng là nước và nước là sóng.
(Xem: 18618)
Thuở xưa, khi vua Phạm Dự (Brahmadatta) trị vì Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh làm một con Tắc kè. Bấy giờ, có một ẩn sĩ khổ hạnh sống trong một thảo am...
(Xem: 16964)
Chúng ta tự thuyết phục mình rằng cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn sau khi ta hoàn tất một dự án này, học hết chương trình này, xong một khoá trị liệu này...
(Xem: 16368)
Ananda là đại đệ tử của Phật. Là em chú bác của Phật, ngài từ bỏ đời sống vương giả, xuất gia theo Phật, hầu cận bên cạnh Phật suốt đời.
(Xem: 15651)
Chỉ hai tuần, sau khi dọn tới căn nhà mới, tôi đã biến đổi hoàn toàn mảnh vườn, khi được người chủ nhà bảo: “Muốn trồng gì, làm gì, xin tùy ý!”
(Xem: 16435)
"Hãy cho con thành một đóa hồng cao lớn, bởi vì con ước mong được ngẩng cao đầu với một niềm kiêu hãnh; đây sẽ là việc của riêng con, con bất chấp số phận mình ra sao."
(Xem: 15410)
Hình ảnh một thiền sư chậm rãi thiền hành trong nắng mai hay an nhiên lặng lẽ tĩnh tọa giữa rừng chiều là tặng phẩm tuyệt đẹp cho những ai có tâm hồn nhạy cảm...
(Xem: 14240)
Em là những giọt nước nằm sâu dưới lòng đất, nhưng em muốn đi về với đại dương có được không anh? - Được chứ, điều ước mơ của em là rất đẹp...
(Xem: 15392)
Trước kia các cuộc khủng hoảng phát minh bởi sự khai thác những tài nguyên và bóc lột khả năng con người. Hiện tại khủng hoảng vì sự lạm dụng các học thuyết chủ nghĩa, nên càng khốc hại, nguy hiểm và phá hoại hơn.
(Xem: 14791)
Ngồi một mình bên tách trà xanh, nhìn chung quanh mình là mùa thu có màu vàng bao phủ khắp không gian. Thiên nhiên khoe mình, kiêu hãnh.. biết bao nhiêu cây lá mỉm cười...
(Xem: 7537)
... cái quan niệm ta có về Bụt ấy cũng như một cái hố xí, và theo nghĩa đó, Bồ TátLa Hán cũng chỉ là những kẻ đem tới gông cùm.
(Xem: 17164)
Thầy giáo yêu cầu mỗi chúng tôi mang một túi nilông sạch và một bao tải khoai tây đến lớp. Sau đó, thầy bảo cứ hễ chúng tôi không tha thứ lỗi lầm cho người nào đó thì hãy chọn ra một củ khoai tây viết tên người đó và ngày tháng lên rồi bỏ nó vào túi nilông.
(Xem: 12280)
Dì Năm dự định mang cậu con trai về trại ruộng Thới Sơn, Châu Đốc nương náo với đồng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tu dưỡng thân tâm, tiện đường dì ghé lại chùa Tây An(1) đảnh lễ Đức Phật Thầy để cầu nguyện cho con sớm lành bệnh.
(Xem: 12204)
Thanh thường bị bè bạn chế giễu là “công tử miệt vườn”, có thể một phần vì gia đình chàng sở hữu một thửa vườn cây trái khá rộng – vườn Tám Thà - tại ngoại ô thị trấn Châu Đốc, nhưng cũng có thể cũng do bản tánh hiền lành chơn chất và “nhát gái” của chàng.
(Xem: 16505)
Một ngày nọ, Vua Salomon bỗng muốn làm bẽ mặt Benaiah, một cận thần thân tín của mình. Vua bèn nói với ông: "Benaiah này, ta muốn ông mang về cho ta một chiếc vòng...
(Xem: 14633)
Một lát sau, chiếc xe thứ ba chạy tới. Chiếc xe này không cũ, không có đông khách nhưng bạn vẫn không hài lòng: "Cái xe này không có điều hoà, thôi mình cố đợi chiếc sau".
(Xem: 14505)
Mùa Vu Lan lại về. Bên cạnh nụ cười rạng rỡ trên gương mặt những người diễm phúc còn có Mẹ, chúng tôi, những người cài hoa trắng, lòng bâng khuâng nhớ Mẹ đã khuất bóng nơi xa...
(Xem: 13817)
Đời có tươi thì có phai; tình có ấm lên thì có nguội. Vẫn biết thế nhưng tình cảm tự nhiên con nhớ Mẹ, thương Mẹ vượt ra ngoài biên giới chật hẹp của sự hợp lývô lý thường tình.
(Xem: 12435)
Em nằm yên giấc mồ côi Đoá hồng lắng đọng bên dòng phù du gió nguồn ngày tháng vi vu sóng đời dồn dập vô thường viễn xa...
(Xem: 13812)
Thằng bé nhìn con bướm chết lần cuối. Dưới ánh trăng đôi cánh nó lấp lánh như ánh vàng. ”Cậu đẹp thật đấy”, thằng bé nghĩ. Rồi một lát sau cậu thả con côn trùng rơi trên đất và chạy về phía mẹ.
(Xem: 12273)
Đây là một câu chuyện có thật, chúng tôi gọi là "Câu chuyện bát mì". Chuyện xảy ra cách đây năm mươi năm vào ngày 31/12, một ngày cuối năm tại quán mì Bắc Hải Đình, đường Trát Hoảng, Nhật Bản.
(Xem: 15316)
Cô con gái hay than thở với cha sao bất hạnh này cứ vừa đi qua thì bất hạnh khác đã vội ập đến với mình, và cô không biết phải sống thế nào.
(Xem: 13767)
Là một thành viên trong cộng đồng thế giới, tôi không thể nói rằng tôi không có trách nhiệm gì đối với những khổ đau, bất ưng, nghịch lý, bất công, hiểm nguy đang xảy ra chung quanh tôi.
(Xem: 13645)
Nỗi thất vọng lớn nhất của con người là chạy bươn về phía trước hay chạy ngược về phía sau để kiếm tìm cho mình một bản ngã. Bản ngã trong cơm áo, gạo tiền, trong kiến thức chữ nghĩa...
(Xem: 13142)
Ta làm và nói sai, nhưng ta lại được nhiều người khen ngợi mỗi ngày, như vậy mỗi ngày đi qua đời ta là mỗi ngày đưa đời sống của ta đi dần vào bóng đêm và từ bóng đêm này dẫn ta đi tới bóng đêm khác.
(Xem: 14030)
Có một phạm nhân trong thời gian cải tạo khi đang tu sửa lại đường đi, anh ta nhặt được 2 triệu đồng, anh ta không mảy may suy nghĩ liền mang số tiền này đến chỗ cảnh sát.
(Xem: 13665)
Con bé không chú ý đến câu hỏi của tôi, đang bận bịu thổi kẹo thành quả bong bóng nhỏ. Có lúc nó thổi không khéo, quả bóng vỡ gây một tiếng bụp nhẹ, để lại chất kẹo nằm vắt ngang đôi môi mọng đỏ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant