Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tìm Đạo và ngộ Đạo qua mấy vần thơ thiền

Sunday, October 17, 201000:00(View: 20277)
Tìm Đạo và ngộ Đạo qua mấy vần thơ thiền


Tìm Đạo và ngộ Đạo qua mấy vần thơ thiền


Tác giả thơ Thiền phần nhiều là Thiền sư. Thiền sư là những vị chuyên tâm hành thiền và thông hiểu thiền định. Thiền là tiến trình tu tập đưa đến giải thoátgiác ngộ, là pháp môn Định Tuệ song tu. Vì thế, các nhà thơ - thiền sư thường lấy kinh nghiệm bản thân trong việc tìm Đạo và ngộ Đạo làm đề tài sáng tác. Chúng ta thử tìm hiểu việc tìm Đạo và ngộ Đạo qua mấy vần thơ đậm đà thiền vị của một số Thiền sư.

Thiền sư Thủ Đoan (1) mượn tiếng chim tử qui để nói việc tìm Đạo:

Phiên âm:
Tử qui
Thanh thanh giải đạo bất như qui,
Vãng vãng nhân tâm hội giả hi.
Mãn mục xuân sơn thanh thủy lục,
Cánh cầu hà địa khả vong ky?
Thủ Đoan
Dịch thơ:
Tử qui
Cuốc kêu ra rả bảo quay về,
Ít kẻ trên đời lại chịu nghe.
Nước biếc non xuân đầy trước mắt,
Tìm đâu mới bỏ được lòng mê?
Nguyễn Khuê dịch
Tử qui tức chim đỗ quyên, ta gọi là chim cuốc (cũng viết chim quốc). Cùng một sự vật mà mỗi người cảm nhận một cách khác nhau. Người xưa có câu "Đỗ quyên minh quốc quốc" (chim đỗ quyên kêu quốc quốc). Bà Huyện Thanh Quan ngậm ngùi tưởng nhớ triều đại cũ đã diệt vong khi nghe tiếng cuốc kêu:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc.
Nguyễn Khuyến nghe tiếng cuốc kêu khắc khoải lại đau lòng trước cảnh nước mất:
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Tiếng chim tử qui nghe thảm thiết, khiến lữ khách nghĩ đến việc quay về, nên chim này còn có tên là "tư qui" (nghĩ đến trở về) hoặc "thôi qui" (thúc giục trở về). Với tâm thể của một thiền sư, tác giả nghe tiếng cuốc kêu, không khỏi cảm thán người tu học chậm ngộ đạo. Sư cho rằng ngộ Đạo không khó, nhưng nhiều người lại thường chấp mê mà không ngộ ra. Cũng như mọi người đều biết tiếng chim tử qui kêu gọi người ta sớm quay trở về, nhưng không một ai nghe tử qui kêu mà chịu quay về. Nhà thơ cho rằng Phật tính chân như giống như non xuân nước biếc đầy trước mắt, có thể nhìn thấy, chỉ cần minh tâm kiến tính thì chỗ nào cũng có thể ngộ ra, không phải tìm đâu xa. Điều quan trọng là hành giả cần có ngộ tính, bản thân thể giải và tinh tấn tu hành.
Ngoại cảnh cung cấp nhiều âm thanhhình ảnh để nhà thơ dùng làm chất liệu sáng tác. Không chỉ mượn tiếng chim tử qui, Thiền sư Thủ Đoan còn mượn việc con ruồi cố tìm cách xuyên thủng giấy dán cửa sổ bay ra ngoài để nói về tìm Đạo:
Phiên âm:
Dăng tử thấu song kệ
Vị ái tầm quang chỉ thượng toàn,
Bất năng thấu xứ kỷ đa ban.
Hốt nhiên chàng trước lai thời lộ,
Thủy giác bình sinh bị nhãn man.
Thủ Đoan
Dịch thơ:
Bài kệ về con ruồi
xuyên giấy dán cửa sổ
Xuyên giấy dán song tìm ánh sáng,
Loay hoay chẳng thoát được ra ngoài.
Thình lình gặp lại đường vào cũ,
Mới biết trước kia mắt thấy sai.
Nguyễn Khuê dịch
Đôi khi chúng ta thấy con ruồi bay vào nhà, rồi sau đó đâm đầu vào kính cửa sổ để bay ra ngoài, vì tưởng lầm là ánh sáng. Thay vì dùng kính làm cửa sổ như chúng ta thấy ngày nay, thì xưa kia người ta dùng giấy. Con ruồi vì tưởng lầm giấy dán cửa sổ là ánh sáng nên tìm cách xuyên thủng giấy để chui qua, nhưng không thể nào xuyên thủng được. Cuối cùng nó mới nhận ra rằng nhìn giấy dán cửa sổ mà tưởng ánh sáng là con mắt đã nhìn lầm, là đã bị con mắt đánh lừa. Giấy dán cửa sổ có ánh sáng chiếu qua không phải là ánh sáng, mà trái lại, là chướng ngại ngăn trở con ruồi tìm đến ánh sáng.
Giấy dán cửa sổ dụ cho những lời bàn nói của người xưa, dụ cho đống giấy cũ. Hành giả chỉ chú tâm, chỉ trông cậy vào đống giấy cũ để mong cầu ngộ Đạo thì không khác gì con ruồi tìm cách xuyên thủng giấy dán cửa sổ, không có chút sở đắc nào. Thiền do ngài Đạt Ma truyền, chủ trương "giáo ngoại biệt truyền" (truyền riêng ngoài giáo), không theo văn tự kinh điển, dùng phương pháp tọa thiền để mong được khai ngộ. Lục Tổ Huệ Năng không biết chữ, phải nhờ người khác đọc cho nghe bài kệ của ngài Thần Tú, nhờ người khác viết giúp bài kệ của mình lên vách. Nhưng do biết bản tâm mình, thấy được bản tính mình mà Lục Tổ đại ngộ. Căn bản của việc tu hànhdựa vào sức của chính mình, dựa vào minh tâm kiến tính. "Dăng tử thấu song kệ" hàm ý cao sâu mà lời giản dị tự nhiên, là một bài thơ nổi tiếng nói về tìm Đạo và ngộ Đạo.
Thiền sư Thần Tán cũng có một bài thơ nội dung tương tự bài thơ trên:
Phiên âm:
Không môn bất khẳng xuất
Không môn bất khẳng xuất,
Đầu song dã đại si.
Bách niên toàn cố chỉ,
nhật xuất đầu thì?
Thần Tán
Dịch thơ:
Cửa không chẳng chịu ra
Chẳng chịu ra cửa trống,
Chui cửa sổ quá ngu.
Trăm năm dùi giấy cũ,
Ngày nào mới ló đầu?
Nguyễn Khuê dịch
Cũng như con ruồi ở bài "Dăng tử thấu song kệ" trên đây, con ong ở bài này không chịu bay ra ngoài qua cửa trống mà cứ đâm đầu vào giấy dán cửa sổ. Tác giả mượn việc này để chê những kẻ tham thiền học Phật chỉ dùi giấy cũ là "đại si", dù cho mất cả trăm năm, tức một đời người, rốt cuộc cũng không thể ló đầu ra. Con ong không thể xuyên thủng giấy dán cửa sổ để bay ra ngoài, cũng vậy, người tham thiền chấp trước vào giấy cũ thì khó thành tựu Phật đạo.
Tìm ánh sáng tức tìm Đạo. Tác giả cho rằng hành giả không nên dựa vào tha lực, không nên hướng ngoại tìm cầu, mà chủ yếu dựa vào tự mình minh tâm kiến tính. "Không môn" vừa có nghĩa thông thường là cửa trống không, vừa là từ ngữ nhà Phật. Không chịu ra cửa Không tức không chịu theo pháp môn quán các pháp là không, không chịu nương vào Không để xa lìa chấp ngãpháp chấp thì sao có thể hiển bày chân như thực tính.
Người tu hành tìm Đạo không chỉ bị giấy cũ ngăn trở, mà còn có nhiều chướng ngại khác, như nội dung bài thơ sau đây của Thiền sư Thủ Tuân (3):
Phiên âm:
Chung nhật khán thiên
Chung nhật khán thiên bất cử đầu,
Đào hoa lạn mạn thủy đài mâu.
Nhiêu quân tiện hữu già thiên võng,
Thấu đắc lao quan tức tiện hưu.
Thủ Tuân
Dịch thơ:
Suốt ngày nhìn trời
Ngày trọn nhìn trời chẳng ngẩng đầu,
Ngước trông lả tả cánh hoa đào.
Che trời quanh bạn đều giăng lưới,
Chẳng vượt lao quan chẳng chịu nào.
Nguyễn Khuê dịch
Bài thơ này lấy việc nhìn trời để dụ cho việc tìm Đạo và ngộ Đạo. Mở đầu, tác giả nói một việc nghịch lý: suốt ngày nhìn trời mà không ngẩng đầu. Nhưng trời ở đây không phải là bầu trời. Trời tức là Đạo, cũng tức là Phật tính, chân như. Vậy ý câu đầu muốn nói tác giả suốt ngày nhắm mắt tĩnh tọa, tham thiền nhập định, dùng ánh sáng trí tuệ Bát nhã chiếu rọi tự tính. Và đến lúc "đào hoa lạn mạn" mới ngước mắt lên, tức thấy hoa đào mà tỏ ngộ. Phật tính, chân như không chỗ nào không có, không chỗ nào không thể nhìn thấy. Sở dĩ người ta không khai ngộ được là vì "lưới che trời", tức màn vô minh, tức vọng niệm che lấp. Tác giả bày tỏ quyết tâm phải qua được "lao quan" mới thôi. Lao quan là dụng ngữ Thiền tông, có nghĩa là cửa ải kiên cố, khó vượt qua. Qua được lao quan tức dứt bỏ hết vọng niệm, phá trừ vô minh, thấy được bản lai diện mục của thực tính.
Ni Diệu Tổng (4) cũng có bài thơ chuyển tải kinh nghiệm về tìm Đạo và ngộ Đạo:
Phiên âm:
Ngộ Đạo thi
Nhất diệp thiên chu phiếm miễu mang,
Trình nhiêu vũ trạo biệt cung thương.
Vân sơn hải nguyệt đô phao khước,
Doanh đắc Trang Chu điệp mộng trường.
Ni Diệu Tổng
Dịch thơ:
Thơ ngộ Đạo
Bát ngát thuyền con một lá trôi,
Quẫy chèo riêng có khúc ca rồi.
Núi mây trăng biển đều từ bỏ,
Đạt được Trang Chu giấc bướm thôi.
Nguyễn Khuê dịch
Ni cô mượn việc đi thuyền trên biển cả mênh mông để dụ cho việc tìm Đạo. Đạo mênh mông như biển khơi. Đi thuyền tức tham thiền tìm Đạo. Chèo thuyền là chỉ sự gian khổ, nhưng chính trong sự gian khổ ấy có "biệt cung thương", tức là niềm vui riêng, niềm vui của người đi tìm Đạo. Trên đường đi, hành giả gặp nhiều "vân sơn hải nguyệt", nhưng đều từ bỏ, vì mây đầu núi, trăng trên biển chẳng qua chỉ là những sắc tướng hư huyễn, không thực. Cuối cùng, hành giả đạt tới cảnh giới "vật ngã lưỡng vong". Sách Trang Tử (Tề vật luận) kể chuyện Trang Chu nằm mơ thấy mình là bướm, thích chí không còn biết có Chu; đến lúc tỉnh giấc lại thấy mình là Chu, không biết Chu chiêm bao là bướm, hay bướm chiêm bao là Chu. Nhà thơ mượn chuyện này để nói mình không còn chấp trước vật và ngã, tâm thể ngộ Đạo, lâng lâng tự tại.
Muốn ngộ Đạo thì phải thấy rõ tính hư huyễn vô thường của mọi vật. Thiền sư Diệc Vi (5) cũng có nhãn quan như vậy:
Phiên âm:
Thiền định
Song ngoại ba tiêu lục bán am,
Tâm hương nhất chú tĩnh trung tham.
Vân hà huyễn diệt tầm thường sự,
Thiền định chân như thị bát đàm.
Diệc Vi
Dịch thơ:
Thiền định
Ngoài song tàu chuối nửa xanh am,
Một nén hương lòng ngồi tĩnh tâm.
Mây ráng việc thường tuồng huyễn diệt,
Chân như thiền định ấy hoa đàm.
Nguyễn Khuê dịch
Bài thơ lấy thiền định làm đề tài. Thiền là gọi tắt tiếng Phạn thiền na, người Trung Quốc dịch là tĩnh lự, cũng dịch là tư duy tu. Tư duy trong tĩnh lặng, tâm chuyên chú vào một đối tượng nào đó. Có được sự tịch tĩnh của thiền định thì chân trí mới mở ra.
Ngoài cửa sổ những tàu lá chuối xanh um một nửa am. Nhà thơ ngồi tĩnh lặng tham thiền, quán chiếu sắc tướng của muôn vật, cảm ngộ mây và ráng xuất hiện rồi nhanh chóng tan biến là việc tầm thường trong cõi giả tạm. Tất cả mọi vật đều huyễn diệt như mây và ráng. Chỉ thiền định chân như mới là hoa đàm. Hoa đàm ba ngàn năm mới nở một lần, hoa đàm nở là điềm lành báo hiệu Đức Phật ra đời, nên người Trung Quốc dịch là linh thụy hoa. Ở đây mượn hoa đàm dụ cho ngộ Đạo.
Qua những bài thơ Thiền trên đây, chúng ta thấy việc tìm Đạo và ngộ Đạo của các vị thiền sư có khác nhau tùy theo căn cơ của mỗi người, nhưng nói chung là vô cùng khó khăn. Các vị thiền sư đã thể nghiệm và cho biết người tu thiền không nên dựa vào tha lực mà phải tự mình tinh tấn tu tập thiền định để được minh tâm kiến tính; không nên tìm ánh sáng bằng cách xuyên thủng giấy cũ như con ruồi, con ong đâm đầu vào giấy dán cửa sổ, mà phải hướng thẳng đến ánh sáng chân lý, ánh sáng của Đạo; phải có cái tâm kiên cố để phá trừ vô minh, dứt bỏ vọng tưởng, vượt qua "lao quan" mà ngộ Đạo.
Thưởng thức thơ Thiền giúp tâm trí được thư giãn và thanh thoát sau những ngày giờ căng thẳng, tất bật công việc mưu sinh, đồng thời hiểu thêm việc tìm Đạo và ngộ Đạo của các vị thiền sư, qua đó suy ngẫm sự tu học của chính mình. Như vậy những bài thơ thiền trên đây không chỉ đem lại mỹ cảm mà còn hữu ích cho đạo tâm của người đọc.

Sách tham khảo:
(1) Thủ Đoan (1025 - 1072): họ Cát, người huyện Hành Dương, tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc), thiền sư thuộc phái Dương Kỳ, tông Lâm Tế, đời Tống. Tác phẩm: Bạch Vân Thủ Đoan thiền sư ngữ lục, Bạch Vân Đoan Hòa thượng quảng lục.
(2) Thần Tán: thiền sư đời Đường, tu ở chùa Cổ Linh tại Phúc Châu, nên còn gọi là Cổ Linh Thần Tán. Sư đi hành cước khắp nơi, đến khi gặp ngài Bách Trượng Hoài Hải mới được khai ngộ đắc pháp.
(3) Thủ Tuân (1079-1234): họ Thi, người huyện An Cát, tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc), thiền sư tông Lâm Tế đời Tống.
(4) Diệu Tổng (? -1163): họ Tô, người Trấn Giang, tỉnh Giang Tô (Trung Quốc), cháu nội Thừa tướng Tô Tụng đời Tống, Tỳ kheo ni. Một hôm, trong khi tọa thiền, Sư cô đại ngộ, Đại sư Tông Cảo bèn ấn khả. Từ đó danh vang bốn phương.
(5) Diệc Vi: vị Tăng ở Việt Đông (Quảng Đông, Trung Quốc), đời Thanh.
Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 30)
Kinh Tứ Niệm Xứ dạy hành giả thiết lập Chánh Niệm trên bốn lãnh vực Thân, Thọ, Tâm, Pháp gọi tắt là Niệm Thân, Niệm Thọ, Niệm Tâm, Niệm Pháp.
(View: 40)
Các vị thánh trong Phật giáo thường được mô tả là từ bi như mẹ hiền, với sự kiên nhẫn vô tận của một người mẹ
(View: 90)
Thu thúc lục căn là làm chủ sáu giác quan khi tiếp xúc với sáu đối tượng trần cảnh.
(View: 103)
Bốn câu thi kệ này được trích trong bài « Kinh Hạnh Phúc » mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói cách đây đã hơn hai ngàn năm trăm năm,
(View: 182)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(View: 260)
Chúng ta ở đây; chúng ta tồn tại và chúng ta có quyền hiện hữu. Ngay cả những sinh vật không có tri giác như hoa cũng có quyền tồn tại.
(View: 205)
Đức Phật xuất hiện và hành đạo nơi xứ Ấn cách nay hơn 26 thế kỷ với hiện thân con người, bậc Giác ngộ trong thế gian.
(View: 230)
Phá kiến là một thuật ngữ trong Phật giáo dùng để chỉ cho việc có quan điểm, giải thích, hướng dẫn sai lạc ý nghĩa chân chính của Phật pháp.
(View: 237)
“Dòng sông ơi! Vẫn thơ mộng như ngày xưa! Tình người ơi! Vẫn đẹp cho đến bao giờ…?”
(View: 267)
Nói sơ tâm, là nói về tâm của người mới học, tâm đơn sơ, tâm như hài nhi trẻ nhỏ, tâm rất mực hồn nhiên, chưa có chút gì là chữ nghĩa dày đặc, không chút gì là kiến thức uyên bác.
(View: 262)
Cái đẹp luôn là đề tài thơ mộng cho con người ta bay bổng, mộng mơ và tương tư không dứt, nó là một phần ý vị của cuộc sống.
(View: 293)
Người tu học Phật đều biết rằng, Bát Chánh đạolà nền tảng quan trọng của toàn bộ giáo pháp Thế Tôn.
(View: 318)
Chúng ta không thể nào trường sanh bất tử, trẻ đẹp, và mạnh khỏe mãi mãi được trên đời.
(View: 451)
Tu hành là gì? Có phải nhất định cần thoát ly cuộc sống, chạy vào trong chùa niệm kinh lạy Phật...
(View: 1076)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(View: 354)
Để đoạn tận tất cả tà kiến thì phải trau dồi chánh kiến. Chánh kiến ở đây là cái gì?
(View: 447)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(View: 309)
Đúng thế, đời là vô thường, huyễn mộng ai ai cũng biết. Nhưng chúng ta không thể nào ngồi im mà thụ động tại chỗ.
(View: 306)
Đức Phật đã dạy các nhà sư nên đi lang thang thế nào? Các bản tiếng Anh thường dùng chữ “wander” để nói về hành vi lang thang.
(View: 333)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(View: 354)
Pháp thoại này Thế Tôn dạy Tôn giả La-vân (La-hầu-la) quán chiếu về thân nghiệp giống như đang soi gương thấy rõ mặt mình dơ hay sạch.
(View: 340)
Cứ mỗi độ Vu Lan lại về với chúng ta, chính lúc đó là mùa Báo Hiếu, không biết bao nhiêu người con, từ khắp bốn phương nhớ tưởng đến công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ…!
(View: 353)
Thỉnh thoảng chúng ta nghe rằng bạn này tu theo Thiền Chỉ, và rồi nghe rằng bạn kia tu theo Thiền Quán.
(View: 362)
Bài pháp thoại này được nói tại một ngày tu Chánh niệmTu viện Tisarana, vào tháng Ba năm 2008.
(View: 360)
Bài viết này được chuyển thể từ một bài báo xuất bản đầu tiên trên Tina Lear's Medium.
(View: 350)
Hình như bất cứ lãnh vực nào, bước vào chuyên sâu, đều luôn có những chướng ngại, hoặc chướng duyên;nhất là hành giả trên con đường tâm linh giải thoát.
(View: 349)
Về câu hỏi, thế nào là thời mạt Pháp? Tôi được nghe câu trả lời của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong buổi nói chuyện tại chùa Viên Giác
(View: 353)
Phàm phu thì sống trong thức phân biệt, nên thấy có sanh tử và không ra khỏi. Trái lại, bậc thánh thì sống trong trí và do đó thoát khỏi sanh tử:
(View: 400)
Phàm là người xuất gia ở chốn Tòng Lâm, tự viện, phải sống đời phạm hạnh, nghiêm trì giới luật đã thọ, giữ gìn oai nghi tế hạnhtrang nghiêm tự thân, kính trên nhường dưới, từ ái với mọi người.
(View: 376)
Bất cứ trong một tổ chức nào, từ chính trị đến xã hội, từ Tôn giáo đến đoàn thể…đều cần có một lý thuyết nền tảng vững chắc để làm cơ sở triển khai mọi sinh hoạt.
(View: 568)
Mỗi ngày trong cơ thể ta đều có những tế bào cũ chết đi và những tế bào mới sinh ra nhưng có bao giờ chúng làm đám tang hay tổ chức sinh nhật cho chúng đâu
(View: 432)
Chúng ta thường nghe nói rằng Thiền Tổ Sư là dạy pháp vô niệm, vô tâm.
(View: 423)
Như lý tác ý là khởi nghĩ, hướng tâm về mọi sự vật và hiện tượng đúng như lời dạy của Đức Phật.
(View: 421)
Một thời Đức Phật trú tại nước Xá-vệ, ở trong Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tônnói với các Tỳ-kheo:
(View: 445)
Thân là thân thể của con người. Niệm là ghi nhận, quan sát. Xứ là lĩnh vực, là đề mục để hành giả quan sát tu tập.
(View: 429)
“Chiếc áo không làm nên nhà sư”, nghĩa bóng của nó như một lời nhắc nhở mọi người, đừng vội đánh giá người khác qua hình thức bên ngoài.
(View: 477)
Có phải bây giờ đã tới thời mạt pháp? Hay là sắp tới thời mạt pháp?
(View: 492)
Tánh Không được đồng hóa với như mộng. Đây là điều hệ thống Kinh Đại Bát Nhã thường nói.
(View: 570)
Toàn thể thế giới chúng ta, bên ngoài là thế gian, bên trong là tâm. Tất cả chúng là một biển vô tận của các pháp hữu vi đang vận hành.
(View: 470)
Việc tu tậpthiền viện nhấn mạnh vào việc hoàn thành mọi công tác tốt đẹp. Là tu sĩ, chúng tôi đặt nặng giá trị của việc chánh niệm về những điều bình thường
(View: 488)
Danh vọng nương nơi cái tôi mà tồn tại. Không có cái tôi, danh vọng không hiện hữu.
(View: 633)
Đã tử lâu lắm rồi, người Phật tử đã nghe nói về thời mạt pháp.
(View: 577)
Gần đây chúng ta thấy xuất hiện trên mạng xã hội nhiều bài viết kêu gọi người Phật tử phải cảnh giác với việc “trộm tăng tướng” hay “tặc trụ”.
(View: 584)
Trong nhiều bài pháp tôi đã viết, thì thường đề cập đến vấn đề làm phước, tích phước, tích đức, hay tu thiện... V
(View: 604)
Bố thícúng dường là một trong những hạnh đầu tiên để làm cho cõi này tốt đẹp hơn, và là những bước đi đầu tiên của Phật tử trên đường giải thoát.
(View: 578)
Thuyết âm mưu không phải là vấn đề mới, nó vốn xảy ra từ xa xưa, bên Đông hay bên Tây đều có cả.
(View: 634)
Sự xuất hiện của hành giả Thích Minh Tuệ đã tạo ra một biến động chưa từng có trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam.
(View: 685)
Bệnh đau là chuyện tất yếu của con người. Trừ những người có phước đức về sức khỏe sâu dày, còn lại hầu hết đều trải qua bệnh tật.
(View: 694)
Thời thơ ấu, chúng ta ưa thích đọc truyện Cô Ba Cháo Gà Địa Ngục Du Ký, rồi ưa nghe kể chuyện vong nhập, chuyện trừ tà…
(View: 1596)
Con đi Tu là để cầu giải thoát, hàng ngày con chỉ xin ăn một bữa, con không nhận tiền của ai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant