Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đứa con bất hiếu

21 Tháng Mười 201000:00(Xem: 16402)
Đứa con bất hiếu

Đứa con bất hiếu


 “Mà thương mạ vẫn thường hay tựa cửa

Bên mâm cơm, vắng bóng đứa con về”. (hp)

Người xưa thường nói “Nuôi con mới biết lòng cha mẹ”(1), điều đó hẳn là không sai, vì ngày nay, chúng ta cực khổ vì con chừng nào thì nghĩ đến ngày trước, khi chúng ta nhỏ bé, ấu thơ, cha mẹ đã khổ vì ta chừng ấy. Nhưng có điều ngậm ngùi nhất là khi về già, ngẫm lại chúng ta thấy quả chúng ta là những đứa con bất hiếu, vì có những điều chúng ta thường mong đợi nơi con chúng ta hôm nay, chúng ta chưa hề làm cho cha mẹ.

Có phải là chúng ta cảm thấy sung sướng hạnh phúc khi ngày nay dù trên đất Mỹ, con cái chúng ta sống gần gũi trong một tiểu bang, đứa xa nhất cũng một vài giờ xe. Những ngày lễ cuối năm hay khi hữu sự, có đầy đủ con cái trong gia đình về sum họp, cháu chắt đầy nhà, bận rộn nhưng trong lòng thấy hạnh phúc vui tươi. Thế mà ngày xưa, khi đủ lông đủ cánh, tôi như con chim chỉ muốn bay xa, thật xa không muốn về đậu nơi gần tổ cũ. Khi có gia đình rồi lại muốn đi xa hơn nữa. Cha mẹ tôi ở Huế, nhưng tôi lại muốn vào làm việc ở Saigon, quả thật đôi khi cũng vì công vụ, nhưng thật lòng không bao giờ tôi muốn về nơi đó để hôm sớm có cha có mẹ. Như vậy dù mỗi năm một lần trở về viếng thăm cha mẹ già, điều đó đã đủ chưa? Ðối với đứa con, nó cho là đủ, nhưng với sự mong chờ của cha mẹ, hãy còn quá ít.

Tôi biết nỗi cô đơn của những người già trông đợi con, nhưng mỗi đứa con lớn lên đều có đời sống riêng, một mái gia đình riêng và những nỗi lo lắng riêng. Hình ảnh cha mẹ trong lòng mỗi đứa con, đôi khi tưởng như mờ nhạt, nhưng mỗi đứa con dù đã lớn khôn, có gia đình riêng vẫn ở trong lòng của mỗi người cha, mỗi người mẹ rất đậm nét. Thương con rồi còn lo nghĩ đến thế hệ cháu. Chúng có được mặc ấm không? Ði nghỉ Hè có được cha mẹ để mắt trông chúng khi chúng xuống biển hay khi qua đường không? Hôm nay trời nóng, chúng có uống nhiều nước không? Sáng nay trời lạnh, đến trường chúng có mặc đủ ấm không? Những câu hỏi thường làm cha mẹ chúng bực mình, nhiều khi trả lời gay gắt với chúng ta, và ngày xưa chúng ta cũng đã từng nói như thế với cha mẹ. Ngày xưa khi tôi có dịp về thành phố, nơi cha mẹ đang sinh sống, tôi thường đi theo bạn bè hay đồng nghiệp ở một vài ngày nơi khách sạn bên kia sông, hơn là về nhà cha mẹ nằm ngủ trong cái mùng cũ kỹ, ố vàng hay ăn một bữa cơm rau dưới ánh đèn lù mù. Tôi biết cha mẹ tôi đã mừng rỡ như thế nào khi nghe tin tôi về nhà, mẹ tôi đã chắt chiu nấu cho tôi món canh măng hay món cá kho mà tôi vẫn thích từ thuở nhỏ. Khi tôi về trễ, mâm cơm dọn sẵn vẫn còn đậy trong cái “lồng bàn” chờ tôi, nhưng tôi đã ăn no, cũng không buồn dở mâm cơm ra, cầm đũa lên, xuýt xoa trước những món ăn quen thuộc thời thơ ấu cho mẹ tôi vui lòng. Quả thật tôi là đứa con bất hiếu.

Ngày nay mỗi lần thấy một bóng chiếc xe quen quẹo vào khu parking, vợ tôi cứ tưởng là có con ghé nhà, điều ấy có khác chi ngày xưa cha tôi vẫn dõi mắt ra đường lộ, nhìn những người khách lạ vừa xuống chuyến xe đò, ngỡ là đứa con của mình vừa trở lại quê nhà. Ngày nay theo vận nước, con người nổi trôi đi khắp chân trời góc biển, nhiều gia đình con cái phân tán, đứa ở trời Tây đứa ở phương Ðông, dù vật chất dư thừa, nhưng làm sao có được cái ấm cúng, sum vầy, nhất là lúc “tối lửa tắt đèn”.

Ngày xưa, tôi không thích tham dự những ngày giỗ kỵ trong gia đình vẫn thường phải bó buộc giờ giấc, nhưng nếu không có những ngày giỗ kỵ như thế, khó có dịp gặp lại được đông đủ bà con quyến thuộc. Bây giờ chẳng ai còn cho những ngày giỗ tổ tiên là quan trọng, nhiều lắm là dành cho cha mẹ, còn như lên cao hơn đến ông bà thì ít ai còn nghĩ đến. Tôi biết một ông cụ ngày xưa giữ đến chức Tuần Vũ, có đến năm bà, mỗi bà trung bình có năm đến bảy con, tổng cộng ông có đến ba mươi người con, nếu không có những ngày giỗ kỵ, sum họp gia đình nghiêm ngặt, thì đến anh em ruột cũng không biết nhau, nói gì đến hàng cháu nội ngoại ra đường nhìn nhau như người dưng, rồi chuyện gì cũng có thể xẩy ra giữa anh em, họ hàng. Ngày nay ở hải ngoại, con cái đi làm ăn xa, tình gia tộc không còn khắng khít như xưa, may lắm là những ngày lễ cuối năm có những cuộc đoàn tụ trong từng mỗi gia đình nho nhỏ, còn như họ hàng thì càng ngày càng xa cách. Chúng ta thường thấy các cuộc họp đồng hương hay những cuộc hội ngộ với các chiến hữu trong đơn vị cũ, nhưng trong mỗi họ, mỗi gia tộc thì chỉ còn gặp nhau trong các tiệc cưới hy hữu mà thôi.

Nếu ngày xưa chúng ta vô tình hay thờ ơ với cha mẹ, để ngày nay, chúng ta đôi khi cũng gặp lại những cảnh huống như thế thì chúng ta lại cho là luật đời. Có người lại cho là chuyện nhân quả, gieo đậu thì có đậu, trồng khoai thì có khoai. Những điều chúng ta mong mỏi được con cái đối xử ngày hôm nay, chúng ta chưa hề làm cho cha mẹ. Khi biết ra thì cha mẹ đã qua đời, có hối hận luyến tiếc thì cũng không sao níu kéo lại được thời gian đã mất, bây giờ chỉ còn lại những nấm mồ đã xanh cỏ. Mỗi lần có người trong họ hàng qua đời, câu hỏi thân tình của chúng ta là “không biết các cháu có về đông đủ không?” Và đến khi nằm xuống, chắc chắn chúng ta ai cũng mong như thế. Khi cha tôi qua đời ở miền Trung, tôi đang ở trong nhà tù đất Bắc. Khi mẹ tôi ra đi ở quê nhà, tôi đang ở cách nơi đó nửa vòng trái đất. Dù với bất cứ lý do nào đi nữa, tôi cũng là đứa con bất hiếu, không về để phục tang, chống chiếc gậy tre bên quan tài cha tôi hay tiễn mẹ tôi đi một đoạn đường. Những món ngon vật lạ dâng lên bàn thờ cha mẹ, bây giờ đâu còn chút ý nghĩa gì. Ðám tang cho lớn, nghi thức rềnh rang chỉ dành tiếng tăm cho người sống, còn người chết chỉ mãn nguyện được ra đi thanh thản, hạnh phúc vì lúc còn sống được con cái hiếu thuận, phụng dưỡng, thương yêu. Ngày xưa, khi ra làm quan, thầy Tử Lộ buồn than vì không còn cha mẹ để phụng dưỡng, nhưng thuở hàn vi, thầy đã vất vả đội gạo, làm thuê để nuôi cha mẹ, cũng đã trọn đạo làm con rồi.

Chúng ta ai cũng mong có con cái quanh quẩn bên mình, hỏi han săn sóc, lưu tâm đến đời sống của cha mẹ, nhưng nếu không được như thế cũng nên thuận lòng, vì thường tình, đứa con đối với một bà mẹ là tất cả, nhưng cha mẹ đối với những đứa con chỉ là một phần nối tiếp của cuộc đời. Về già, tôi mới nhận ra tôi là đứa con bất hiếu, và mỗi khi tôi muốn trách con cái một điều gì, tôi thường nhận ra những khiếm khuyết của mình đối với cha mẹ ngày xưa, đành diện bích, đối bóng mà nghĩ lại thân mình, không khỏi thấy lòng hổ thẹn.

(1) “Dưỡng tử phương tri phụ mẫu ân”- La Tiên Sinh)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 590)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 770)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1096)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1266)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 994)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1335)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 753)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 803)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 819)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 791)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 821)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 978)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 994)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 919)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 846)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1002)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 984)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 894)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 840)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 947)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1002)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1138)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1604)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1154)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1246)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1103)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 963)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 948)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 792)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1350)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1262)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1365)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1319)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1464)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1345)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1197)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1254)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant