Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Địa danh Thủ Dầu Một

27 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 19233)
Địa danh Thủ Dầu Một
Hình ảnh
(Đăng lại từ blog 360 plus)

Nam Bộ trước nay tồn tại một số địa danh có thành tố “thủ” đứng trước như:
  • Thủ Dầu Một, Thủ Đồn Sứ, Thủ Nhơn, Thủ Chánh (Bình Dương),
  • Thủ Đức, Thủ Thiêm, Thủ Đào, Thủ Hy, Thủ Huấn, Thủ Khúc, Thủ Tắc, Thủ Tọa, Thủ Thuật (TP. Hồ Chí Minh)
  • Thủ Thừa, Thủ Đoàn (Long An)
  • Thủ Triệu, Thủ Cấm, Thủ Chánh ( Tiền Giang)
  • Thủ Chiến Sai ( An Giang)
  • Thủ Tam Giang ( Cà Mau)
Nguồn gốc các địa danh này thương gây tranh cãi trong giới nghiên cứu, trong đó có địa danh Thủ Dầu Một (TDM).

Theo Huỳnh Tịnh Paulus Của thì: “Thủ ngữ là chức quan giữ của biển” (1869). J.F.M Génibel ghi trong tự điển của mình là: “Quan thủ ngữ: Captaine de port” (Quan canh giữ đồn biển) (1898). Eugène Gouin cũng chua nghĩa tương tự: ”Thủ ngữ: Garder le port” (Đồn canh phía biển) (1957). Về sau này cách nhà nghiên cứu cũng hiểu yếu tố “thủ” trong địa danh theo nghĩa đó, như Sơn Nam: ”Thủ là chăm sóc, giữ gìn, còn có nghĩa là một đồn binh, đồn tuần tra”, Vương Hồng Sển: ”Thủ ngữ, tấn thủ: chức quan giữ của biển, đồn thủ tại của biển”. Theo Nguyễn Đình Đầu: ”Thủ để thu thuế và giữ việc trị an”. được đặt tại nơi xung yếu để giữ an ninh trật tự”. Chú giải của Lý Việt Dũng trong bản dịch Gia Định Thành thông chí: “Thủ sở, thủ ngự sở, gọi trại thành thủ ngự là nơi đóng đồn trên bộ để phòng giặc kiêm luôn thu thuế khóa như Thủ Thiêm, Thủ Đức, Thủ Đoàn, Thủ Dầu Một, Thủ Thừa…” Chỉ thuần túychức năng thu thuế: ”Thủ ngự là viên chức trông coi một thủ (nhỏ hơn tuần ty). Hay có một cách hiểu khác đi một chút như Bùi Đức Tịnh: ”Danh từ chỉ các đồn canh gác dọc theo các đường sông”. Hoặc như Nguyễn Đình Tư bổ sung cách hiểu về “thủ” là trạm gác được lập ở những chỗ giáp giới rừng núi, chỗ chính quyền chưa kiểm soát được về mặt hành chính. Thủ được thiết lập dọc theo các con suối, đường độc đạo, bến đò ngang mục đíchkiểm soát sự đi lại và thu thuế.

Thủ ngự có hai nghĩa :
1. Chức quan võ phụ trách quân đội canh gác dọc biên giới.
2. Chức quan trong coi một thủ nhỏ hơn tuần ty, giữ việc thu thuế.

Thủ Dầu Một đầu tiên là địa danh vùng, rồi địa danh các đơn vị hành chính các cấp: hạt TDM (1869), tỉnh TDM (1899), thị xã TDM (1975).
Hình ảnh
Chợ Thủ Dầu Một, ảnh chụp lại từ cuốn Quê Hương Sông Bé của Sở văn hóa thông tin Tỉnh Sông Bé, 1990 


Trước nay có ba cách giải thích về nguồn gốc địa danh này.

Thuyết thứ nhất cho rằng địa danh có nguồn gốc từ tiếng Khmer “Thun Đoón Bôth” có nghĩa là gò có đỉnh cao nhất. Vương Hồng Sển đã bác bỏ giả thuyết trên khi cho rằng: “Chữ Đoón” không đúng giọng Thổ, phải nói “doeum” có nghĩa là cây. Bôth theo tự điển, pannetier viết doeum pou là “banian” tức cây lâm vồ, cây bồ đề, nơi Phật Thích Ca nhập niết bàn, và người Miên trọng nể cây lâm vồ này lắm.Thul là gò.
Thuyết thứ hai giải thích địa danh TDM là địa danh thuần Việt, được ghép theo phương thức: thủ (đồn , trạm) + tên thực vật + số từ.

Trong “Gia Định Thành thông chí” đã thấy ghi nhận về địa danh “Dầu Một”. Trong “Đại Nam nhất thống chí” (1820) đã thấy ghi nhận về địa danh này: ”Chợ Phú Cường ở thôn Phú Cường, huyện Bình An tục danh chợ Dầu Một ở bên lỵ sở huyện, xe cộ ghe thuyền tấp nập, đông đảo”. Như vậy địa danh “Dầu Một” đã tồn tại trước địa danh Thủ Dầu Một.

L. De Grammont, sĩ quan quân đội Pháp, từng chỉ huy đồn binh Thủ Dầu Một những năm 1861, 1862 đã có những ghi chép về chợ Phú Cường hay chợ Thủ Dầu Một, đoạn bến sông Sài Gòn: “… Những thân cây dầu trần và rất cao tạo thành vòng đai cảng. Dưới chân chúng, một cây đã đã có hơn trăm tuổi đứng hùng vĩ như hình ảnh kẻ vương tay che chở bảo vệ vùng đất này”.

Tác giả Sơn Nam cho biết, địa điểm chợ TDM ngày nay, trước kia là một bến xe trâu, thuận lợi để tắm trâu và rửa xe. Nơi đây có quán trà Huế, quán cơm, dần dần thành chợ. Chỗ mé sông (ngang dinh chủ tỉnh) có cây dầu lớn, trốc gốc sau cơn bão (có lẽ bão năm Thìn 1904), ngọn cây gây cản trở giao thông giữa lòng sông. Người Pháp phải huy động dân phu giải tỏa, gốc to “đôi ba người ôm”.

Hiện nay trong khuôn viên của Tỉnh ủy Bình Dương và trường Sĩ quan Công binh (Phường Phú Cường , TX TDM) cũng còn một số cây dầu. Hay như đoạn đường Bạch Đằng chỗ gần trường trung học Mỹ thuật BD vốn trước đây có cây dầu bị đốn hạ khi mở rộng con đường này.

Ở Ngã ba Nguyễn Tri Phương – Bùi Quốc Khánh thuộc phường Chánh Nghĩa, hiện vẫn còn cây dầu đôi với tên gọi đã trờ thành địa danh Dầu Đôi.

Trên đường Nguyễn Tri Phương , chỗ khu Lò Heo cũ hiện vẫn còn cầu Thủ Ngữ, nằm ranh giới phường Phú Cường và phường Chánh nghĩa.Con rạch chảy từ sông Sài Gòn vào có tên là rạch Thủ Ngữ.Cạnh đấy là cung thiên hậu được xây lại năm 1988 (địa điểm cũ của chùa bà Bình Dương trước 1923).

Người Hoa gọi địa danh Thủ Dầu Một là “Cổ Long Mộc”[1]. Dầu ráy được gọi là mãnh hỏa du, còn gọi là dầu chai để trét thuyền, nhúm lửa v.v.

Sách Phú Cường lịch sử văn hóatruyền thống cách mạng cho biết, cách đây vài trăm năm cây dầu hoang mọc kín cả mấy ngọn đồi Phú Cường và Bà Lụa. Những rừng dầu lâu năm được cư dân ở đây khai thác lấy gỗ để đóng đồ dùng sinh hoạt, đóng thuyền khai thác nhựa để làm chất đốt và chất chai trét thuyền. Xóm Dầu Đặt (tức An Nhất) chuyên đóng ghe thuyền cho địa phương, nằm ở quãng từ chợ TDM lên tới thành Quan. Xóm Dầu vàng (tức thôn Phú Lợi Tây) tương ứng với khu vực ấp Bộng Dầu.

Đây là cách giải thích được đa số ý kiến các nhà nghiên cứu chấp nhận nhất.
Và thuyết thứ ba cho rằng địa danh Dầu Một là do Dầu Miệt (vùng có cây dầu) mà ra.Nếu chữ miệt có nghĩa là vùng thì kiểu kết hợp trong địa danh Dầu Một /Miệt là không phù hợp. Ví dụ, phải nói miệt vườn, miệt biển, miệt trên, miệt dưới, miệt thứ, miệt U Minh, miệt Đồng Tháp…

Như vậy địa danh TDM có thể hiểu là “cây dầu lớn/ cả (duy nhất) mọc vượt lên trên nằm bên cạnh đồn/ thủ”.

Tóm lại, địa danh TDM có kiểu định danh: thủ + tên thực vật + tính chất. Việc nghiên cứu các địa danh có kiểu định danh này sẽ giúp tìm hiểu rõ hơn quy luật cấu thành các địa danh Nam Bộ.
NGUYỄN THANH LỢI
----
Sáng mua báo Xưa và Nay đọc thấy hay, gõ lại cho mọi người xem, cũng mệt nghỉ, đã bỏ bớt một số đoạn nhỏ và cả trang chú thích .
Riêng ba chữ "Cổ Long Mộc" ở trên theo mình là chưa chính xác.Năm nào có lễ hội chùa bà mình cũng coi và thấy đó là ba chữ "Thổ Long Mộc" chứ không phải "Cổ", xem wiki tiếng Hoa http://zh.wikipedia.org/wiki/%E5%B9%B3%E9%99%BD%E7%9C%81 thấy cũng vậy (thử dùng google translate dịch là biết ^^).
Bonus thêm cái hình vòng xoay ngã sáu 
Hình ảnh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 782)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 750)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 686)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 718)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 766)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 704)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 742)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 793)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 937)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1408)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 955)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 991)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 926)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 748)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 758)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 625)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1287)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1166)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1133)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1086)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1197)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1142)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1227)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1150)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1031)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1155)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1124)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1236)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1132)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1206)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1194)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1171)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1154)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1740)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1142)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1174)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1286)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1171)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant