Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật tử Việt kiều với sự ước vọng

02 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 11677)
Phật tử Việt kiều với sự ước vọng

PHẬT TỬ VIỆT KIỀU VỚI SỰ ƯỚC VỌNG
Minh Mẫn

blankMùa hè nước Mỹ nóng không thua ở Việt Nam; vùng Hoa Thịnh Đốn đã như thế thì các bang gần sa mạc sẽ như lò bánh mì thôi. Nhưng ít ai phải chịu cái nóng như thế, vì trong nhà, máy lạnh 24/24, bước ra ngoài là lên xe cũng có máy điều hòa. Cộng đồng kiều bào không nóng bởi khí hậu nhưng nóng bởi nghiệp vận đất nước và vận mệnh Phật giáo.

Tin tức hàng giờ về tình hình biển Đông, về cuộc sống của ngư dân bị đe dọa, về tính ngạo mạn của Trung Quốc, về tính nhu mỳ tinh tế của lãnh đạo Việt Nam, về xáo trộn vô đạo đức của xã hội… Cộng đồng Việt Kiều tuy sống trên xứ hòa bình, nhưng luôn nóng lòng hướng về quê mẹ. Bên cạnh đó, sinh hoạt tín ngưỡng trên đất khách cũng làm bức xúc không nhỏ cho số phận của một tôn giáo truyền thống VIỆT NAM đang lan tỏa trên đất cờ Hoa.

Truyền thống tín ngưỡng ăn sâu vào máu huyết của người con Việt. Từ thưở khai hoang miền Nam, quần chúng đi đến đâu, tự động lập chùa đến đó. Tuy miền Nam Việt Nam trên 300 năm tuổi, đã có trên 15 ngàn ngôi chùa. Miền cao nguyên đất đỏ thưở nhà Ngô di dân lập ấp, đa phần người miền Trung tay lấm chân bùn, cũng tạo dựng những ngôi Tam Bảo thô sơ để thờ phượng mặc dù chưa có tu sĩ; họ tự chăm sóc và cùng nhau tu tập. Như thế cũng không lấy làm lạ khi những người dân, lập cư trên đất âu Mỹ, họ góp công tích của để xây dựng cơ sở thờ tự. Có những nơi chưa đáp ứng đủ điều kiện theo luật pháp Hoa Kỳ, họ tạm thời mua nhà dân để làm nơi thờ phượng.Có những chùa như Từ Liên, Atlanta, tuy diện tích 5 mẫu, xây dựng chưa có đủ khoảnh đất đậu nhiều xe hơi khi có lễ lộc, cũng chưa được sinh hoạt công cộng. Điều nổi bật số di dân người Việt theo đạo Phật, không những giới bình dân, mà ngay cả giới trí thức được đào tạo từ nền giáo dục của Mỹ như Bác sĩ, kĩ sư, chuyên gia… và một số sĩ quan thời Việt Nam Cộng Hòa, không xuất gia thì cũng là những tín đồ tại gia ngoan đạo. Những thành phần nầy tuổi ngoài 60, một khi họ hướng về Phật, họ gạt bỏ mọi tị hiềm chính trị, mọi bon chen thế gian để sống cuộc đời mẫu mực của một Phật tử tại gia. Có những em sinh viên, thanh niên du học, họ cũng tìm đến chùa cách xa hàng trăm km vào ngày nghỉ hoặc cuối tuần. Họ tự tìm học giáo lý qua website, băng dĩa và sách vở. Những thời khóa tu tập và các buổi giảng do các tu sĩ được thỉnh mời từ các bang xa xôi, họ tham gia nhiệt tình. Trên đất nước rộng mênh mông, người ở gần chùa cũng phải 15km, thường thì rất xa. Có những Phật tử bên Canada hoặc Úc, cũng bay qua tham dự các khóa tu do các danh Tăng hướng dẫn. Thường thì họ tham dự để nhìn đời sống thanh tịnh của Tăng sĩ, học hỏi thân giáo hơn là kiến thức Phật học. Tâm lý chung của các Kiều bào – xa quê hương, sau những ngày giờ chật vật với công việc, trống vắng lúc con cái không sống chung với cha mẹ khi đã tự lập, họ quá mệt mỏi với mọi sự quá khích, và những mất mát đau thương trong quá khứ như giấc mộng kinh hoàng, họ học thuộc bài học ngàn đời về sự vô thường của kiếp sống, họ quay về chùa như quay lại với niềm tin tiên tổ mong có điểm tựaan ủi tâm linh, vì thế Tam Bảo là mỏ neo níu kéo họ giữa cuộc sống thực dụng của xã hội mà họ cảm nhận thiếu tình liên đới ruột thịt.

Số tu sĩ hiện diện chưa đáp ứng đủ với sự mong mỏi của quần chúng, và số lượng Tăng sĩ trên xứ người cũng thiếu nhất quán trên tinh thần Lục Hòa của đạo Phật. Nhiều khuynh hướng khác nhau do tác động thời cuộc, dẫn đến nhiều tổ chức Giáo hội khác nhau ra đời, vì thế Tăng đoàn Phật giáo hải ngoại trở thành những mảnh vỡ phản ảnh những bộ mặt dị dạng của Phật giáo Việt Nam. Trong khi các giáo đường Kito vắng bóng màu cờ chế độ cũ theo lịnh Vatican thì một số chùa Việt Nam vẫn còn bị áp lực một biểu tượng quá khứ đó đè nặng trong sinh hoạt cộng đồng. Quần chúng quá ngán ngẫm, chính vì thế họ trân quý sự tu tậpthuần túy tín ngưỡng tâm linh như một gia bảo của đời mình.

blankMột số tu sĩ trẻ bị cuốn hút bởi vật chất, một số ít danh Tăng hấp dẫn khá đông quần chúng bởi nhiều thủ thuật khác nhau do khéo che đậy được những vi tế trong Danh-lợi-tình. Có những vị hướng dẫn giáo lý chưa đủ nghĩa để tương thích với căn cơ thính chúng, cũng có vị đem cả lý số dịch học, địa sinh học của Trung Quốc vào dạy song hành với việc tu tập. Dĩ nhiên đó chỉ kích thích tính tò mò của đại chúng chứ không thể tương thích với giáo lý giải thoát của đạo Phật, Phong thủy, bói toánthế gian pháp làm sao giúp quần chúng cần tu học xuất thế gian pháp? Chẳng những thế còn có thể làm chướng ngại việc tu tập. Những khóa tu học nơi giảng đường phải mướn từ các trường học hoặc các điểm công cộng, vì các chùa không đủ chỗ, và vị giảng sư như thế không phải cư dân địa phương mà họ đến từ các bang xa xôi khác, họ có đạo tràng, có máy móc quay phim, bán băng dĩa đi theo phục vụ như một dịch vụ doanh nghiệp. Có giảng sư xuất thân từ tông phái Đài Loan hoặc được tu học bởi các chân sư Tàu, khi giảng cho người Việt, mặc dù họ là người Việt, họ vẫn buộc thính chúng tụng đọc tiếng Tàu như họ, trong khi trên màn hình có cả âm Tàu, tiếng Anh và tiếng Việt. Một số hãnh diện thích thú khi tụng đọc tiếng nước ngoài, một số vị cao tuổi họ chỉ quen với kinh chữ Việt. có người không thích như thế. Trong thời khóa tu có cả hướng dẫn thao tác thể dục lấy từ trang mạng. Có người nói đùa – đến để nghe pháp tu học chứ đâu phải để tập thể dục, các khóa huấn luyện thể dục ngoài đời còn chuyên nghiệp và đầy đủ hơn thế, cần gì phải đến đây. Nếu học phong thủy địa lý thì tìm thầy chuyên môn mà học, chuyên nghiệp hơn kiểu qua loa không đâu vào đâu như vậy. Dạy tu học Phật mà xen tạp đủ loại pháp thế gian như cơm chiên thập cẩm như thế chiếm hết thời gian, làm giảm mục đích chính việc tu tập. Tìm những vị giảng chuyên sâu vào giáo lý quả là rất hiếm. Những vị chân tu thật học quá ít trong khi quần chúng tín đồ khát khao giáo pháp. Kinh tế thị trường và tiếp thị len sâu vào Phật giáo qua ngõ hoằng pháp. Chính vì thế, cộng đồng kiều bào mong có một tổ chức thống nhất Phật giáo để việc tu học không bị pha tạp. Việc này không bao giờ có, kể cả thời cực thịnh của Phật giáo, vẫn chưa có một sinh hoạt và tu học thống nhất. Phật tử trong nước ngao ngán tu sĩ thế nào thì ở hải ngoại, phần lớn tu sĩ cũng tạo sự thất vọng trước khát vọng của họ như thế ấy. Một ước vọng duy nhất của quần chúng hải ngoại là cần một tu sĩ chân chính, không bị vật dục cám dỗ, có thể không cần một Tăng sĩ có kiến thức uyên bác, không nhất thiết phải một kinh sư giỏi nghi lễ, cũng không hẳn phải là một tu sĩ giảng hay có sức ru ngủ; hình ảnh một bậc chân tu không nặng tiền của, không sống xa hoa, không tiền hô hậu ủng, không tư hữu quả là không tưởng đối với họ. Nói thế không có nghĩa là không có những bậc chân tu, vì họ chưa đủ duyên gặp thôi. Một số quần chúng thích âm thinh sắc tướng, chư Tăng đủ để đáp ứng, thích giảng sư hoa hòe hoa sói nói đùa mua vui mà không đi sâu vào giáo lý, cũng không thiếu. Muốn một giảng sư uyên bác kiến thức lại càng không khó. Những hình thái như thế, tín đồ hiểu đạo và chuyên hành trì công phu họ không cần thiết. Nhu cầu của họ cần một Tăng tướng nơi thân giáo chứ không chỉ ở khẩu giáo. Rất may trên đất khách chưa xuất hiện dạng thầy cúng với giá cả không thương lượng. Trong xã hội Việt Nam, kinh tế thị trường có thể du di- thuận mua vừa bán, cò kè bớt một thêm hai, nhưng ma chay theo Ngọ thì không có vấn đề kèo nèo thêm bớt.

Quần chúng cũng xót xa khi thấy các sư Việt Nam sống xa hoa chung quanh quần chúng còn nghèo đói. Người không làm ra của cải mà hưởng thụ trên những của cải sang trọng. Trong khi đó, trách nhiệm hoằng truyền cho tín đồ đói pháp nơi vùng xa, vùng sâu lại không hề quan tâm, chuyện đó nhường cho ngoại giáo thực hiện. Chùa đua nhau phát triển như loại hình kinh doanh thời đại, đó không phải là tín hiệu một Phật giáo hưng thịnh, bởi lẽ tư chất của tu sĩ đang thiếu một nội lực cần thiết. Nếu một tu sĩ không có nội lực mà chỉ phát triển ngoại hình, tu sĩ sẽ là một trong những giai cấp thượng tầng của xã hộilịch sử tôn giáo thế giới đã từng kinh qua, như Bà La Môn từng là giai cấp giáo sĩ liên kết chặt chẽ với giới cầm quyền.

Quần chúng tín đồ tuy than vãn mà vẫn cứ nhắm mắt cung phụng những vị mà họ có cảm tình. Than trách giai cấp tu sĩ mà lỗi phần lớn chính phát sanh từ tín đồ mù quáng. Những thập niên 1930 khi cư sĩ đứng ra nỗ lực chấn hưng Phật giáo để rồi sản sanh hàng loạt Tăng tài cung ứng cho giáo hội sau khi đất nước chia hai. Chính những Tăng tài đó đã đưa Phật giáo thoát khỏi ách nạn thời đại 1963. Sau 1975, các bậc cao đức lần lượt về với quá khứ, để lại một khoản trống quá lớn cho Phật giáo Việt Nam. Khi các trường Phật học được phục hồi, học viện Phật giáo đã cung ứng cho Giáo hội một số rất ít những Tăng Tài giữa hàng ngàn Tăng ni sinh tốt nghiệp và hàng trăm tu sĩ xuất dương du học với một mớ bằng cấp cao ngất. Có lẽ lúc nầy cư sĩ phải tiếp tục gánh lấy trách nhiệm cùng với chư Tăng chấn hưng đạo Phật. Tín đồ không chỉ là người hộ pháp cung ứng vật chất cho Tam bảo, tín đồ vẫn là thành viên của Tăng già trong tứ chúng của đạo Phật, vì thế, Phật giáo hưng suy, tín đồ có một phần trách nhiệm. Việc cung ứng vật chất quyết định việc nên hư của các tu sĩ trẻ. Một tu sĩ vào đời được quần chúng cung phụng sùng bái như Thánh sống, họ sống trên của cải không do mồ hôi công sức họ làm ra thì tuổi non trẻ đó chưa biết trân quý tấm lòng của quần chúng và tương lai của một Phật giáo, vì họ chưa ý thức được trách nhiệm vô hình của một sứ giả Như Lai. Những tín đồ tại gia, trong nước cũng như ngoài nước, bản thân không dám tiêu xài, vợ chồng con cái cũng dè xẻn từng đồng để cúng dường chư Tăng; có người ở khu nhà ổ chuột, lao động chân tay, thế mà việc tiêu xài của một số Tăng sĩ, từ vật dụng nhỏ như cell phone, thuốc lá đến bất động sản, đều là những loại cao cấp trong xã hội. Một hành khất không dám ngửa tay xin tiền một tu sĩ ngồi trên xe đời mới lúc ngừng lại ngã tư. Vậy Tăng sĩ ngày nay là thành phần nào trong xã hội? Hình ảnh một thanh niên ăn chơi sa đọa, hưởng thụ phung phí trong một gia đình rách nát, nói lên tinh thầntrách nhiệm với gia phong, một Tăng sĩ cũng thế, do gia đình dung dưỡng quá mức thì tín đồ cũng quá mức cung phụng mà không cần biết tu sĩ đó xử dụng đồng tiền vào việc gì cho Tam bảo.

blankTệ nạn phần lớn ở đất Mỹ, tu sĩ nặng tâm vì tiền, vì thế bằng mọi cách phải có tiền, muốn thế, phải lập chùa, một khi có chùa là có bao nhiêu nhu cầu và áp lực khác về sinh hoạt xã hội và nghĩa vụ thuế má. Cái vòng lẩn quấn cuốn hút biến tu sĩ thành những nhà sáng tạo kinh doanh không vốn. Thế là thủ thuật hoằng pháp, gây quỷ dưới mọi hình thức, khai thác tâm lý quần chúng một cách tinh vi mà ít ai biết. Giới trí thức Phật giáo luôn quan tâm đến nghiệp vận tôn giáo mình trên quê hương cũng như nơi đất khách. Họ vẫn ngồi lại mỗi khi có dịp, nỗi ưu tư được nêu ra nhưng chưa bao giờ có đáp án khả dĩ, vì muốn thanh lọc, canh tân trong giới Tăng sĩ, cần phải có một vị đủ uy đức; Tại Âu Mỹ, mỗi vị thượng thủ đều cát cứ một tổ chức, một giáo hội với những danh xưng khác nhau, không ai phục tùng ai. Trong nước, tuy có hệ thống Giáo hội duy nhất, những chức sắc càng cao thì uy tín càng thấp bởi thân giáo bất cập với ngôn hành. Tăng niquần chúng cũng thiếu niềm tin. Chính vì thế, phương cách canh tân nội tình Phật giáo của 1930 không thể áp dụng trong thời đại vật chất quyết định xã hội ngày nay. Cho dù kinh tế đại chúng của xã hội tư bản hay kinh tế thị trường định hướng theo xã hội chủ nghĩa cũng đều là cơn lốc cuốn hút mọi người con Phật chưa biết dừng lại. Tinh thần “Tri túc” của Phật giáo, các tu sĩ ngày nay chưa biết đâu là đủ thì “Tam thường bất túc” của một hành giả khó mà thực hiện.

Phát triển xã hội, phát triển tôn giáo… y cứ trên vật chất, lấy kinh tế làm thước đo thì việc chấn chỉnh Tăng thân cũng phải từ phương tiện vật chất song song với kế hoạch giáo dục. Nội tình giáo hội áp dụng giáo chế đối với tu sĩ thì hàng ngũ cư sĩ cũng phải biết điều tiết hợp lý trong việc cúng dường, bởi lẽ mọi sự cúng dường không phải đều là hợp lý khi mà người sử dụng đồng tiền không đem lại hiệu quả cho Tam bảo và giúp tu sĩ có một nhân cách xứng đáng. Xã hội Cộng sản xa xưa quản lý bao tử quần chúng để điều hành đất nước thì việc quản lý kinh tế chặt chẽ trong việc cung ứng cho tu sĩ cũng giúp cho họ biết xử dụng đồng tiền mồ hôi nước mắt của tín đồ, một cách hợp lý. Nội quy Làng Mai áp dụng cho tăng thân cũng như các cộng đồng tu viện chân chánh của Phật giáo trong một số quốc gia đều hạn chế việc tư hữu, điều nầy giúp cho hành giả không vướng bận vật chất, chuyên tâm vào việc tu tập hiệu quả hơn. Luật Phật cũng không cho tu sĩ chất chứa tiền của ngoài “tam y nhất bát”. Khi có tư hữu là lòng tham phát sanh, từ đó bản ngã cũng tồn tại, cho dù vi tế. Một tu sĩ thuộc hàng đại gia thì việc tiếp xúc với quần chúng cũng khó mà bình đẳng, kẻ nghèo khốn khó mà được thầy lắng nghe. Ngay cả một tổ chức nghiêm túc như Kito giáo Vatican, một vị thụ phong Linh mục đều có lời khấn về đức “nghèo khó” thế mà các Linh mục Triều ở các giáo xứ “khó mà nghèo”, vậy một tổ chức lỏng lẻo như Phật giáo cũng không thể đòi hỏi tu sĩ tri túc nếu bản thân vị đó không tự giác. Tuy nhiên, cũng không thiếu nhiều bậc chuyên tu ẩn thân nơi rừng sâu núi thẳm và một số ở thị thành, vẫn giữ được đời sống thanh bần.

Tín đồ là người hộ trì Phật pháp, phải cung dưỡng Tăng ni, nhưng cung dưỡng thế nào để tu sĩ không hư hỏng, biết rằng bản chất hư nên cũng do nhân thân của tu sĩ, nhưng ngoại lực cũng góp phần quan trọng. Nếu ngoại hộ không tạo duyên thì cái nhân xấu cũng khó phát triển. Cái ưu tư cho tiền đồ Phật pháp ngày nay của phần lớn giới Trí thức Phật tử không chỉ than vãn với nhau mà phải giúp cho quần chúng bình dâný thức về việc hộ trì Tam bảo, trong đó vật chất là nền tảng phát triển mà cũng là nền tảng để hư hoại Phật pháp. Tại sao chư Tăng không nhập chúng mà mỗi thầy phải lập một ngôi chùa riêng biệt? Tiền của bá tánh bị phân tán mỏng như thế thay vì có thể đào tạo một tu sĩ hoàn chỉnh cả mặt kiến thức lẫn đạo đức hầu củng cố nội lức cho tiền đồ Phật giáo! Quyết định chỉnh đốn Phật giáo Việt Nam ngày nay trong cũng như ngoài nước, cư sĩ có một ý thức đóng góp rất quan trọng. Đó là lối thoát hiện nay.

MINH MẪN
Virginia 30/7/2011

Hình bên trên: (từ trên xuống dưới)
(1) Một buổi cúng dường trai tăng
(2) Thích Trí Long trụ trì một ngôi chủa ở Texas trả lời cáo buộc với ban trị sự (Linh Sơn An Lạc Viện)
(3) Lễ Phật Đản 2009 tại TP. Westminster California

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1950)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 2064)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2254)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2519)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2550)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 2085)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2537)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1874)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1968)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2254)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2780)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1692)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1609)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1799)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1631)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 2206)
Nếu một người có nghị lực, tâm trí, trong sáng trong suy nghĩ, lời nóiviệc làm một cách cẩn trọngcân nhắc, kiềm chế các giác quan của mình, kiếm sống theo Luật (Dhamma) và không vô tâm, thì danh vọng và tài lộc của người có tâm đó đều đặn tăng lên.
(Xem: 2364)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
(Xem: 2082)
Hạnh “bố thí” là một trong sáu hạnh của Bồ-tát làm phương tiện đưa đạo vào đời, đem lại niềm vui và xoa dịu nỗi đau của chúng sanh.
(Xem: 1862)
Từ nơi cao rộng mới thấy bao quát toàn cảnh bên dưới. Nào là núi, nào là rừng. Núi xa thì màu nhạt đi, núi gần thì sậm màu đất đá. Rừng thưa thì thấy cả những đường mòn quanh co xuyên qua các thảm lá mục và những tảng đá phong rêu; rừng sâu thì chỉ xanh một màu lá.
(Xem: 1787)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1969)
Người xưa thường nói: “Chúng ta chỉ có thể kiểm soát được hành động, nhưng không thể kiểm soát được kết quả” Xin Hãy Buông Gánh Nặng Xuống.
(Xem: 1704)
Dù những vật hữu tình hay vô tình đều có cội nguồn hình thành, lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
(Xem: 2690)
Khi bàn về cái tôi, người ta thường nói hóm hỉnh rằng: trong cuộc sống, cái tôi mà thệm dấu nặng thì thành TỘI; cái tôi huyền thì thành TỒI; và cái tôi sắc thì thành.. TỐI.
(Xem: 1850)
Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác.
(Xem: 2185)
Tôi chưa từng chứng kiến sự ra đi của bất cứ ai. Trước khi mẹ tôi trở nên quá yếu, tôi chưa từng thấy ai bệnh nặng cả.
(Xem: 2145)
xuất gia hay tại gia, giàu hay nghèo, nam hay nữ, trẻ hay già cũng đều phải biết điều tiết, chế ngự tâm mình.
(Xem: 2496)
Có người nói tu không cần học Phật Pháp cũng được, chỉ cần học một pháp môn nào đó rồi chuyên tu pháp môn đó thì kết quả còn tốt hơn học nhiều pháp môn mà không chuyên tu.
(Xem: 1806)
Phật tử, chúng ta phải hằng ngày tự thân tu tập, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để tự cải tạo tâm mình theo hướng chân, thiện, mỹ.
(Xem: 1987)
Đừng đặt nặng vấn đề sống, chết. Đừng nghĩ đến điều đó. Chỉ cần thanh lọc tâm trí của bạn, thì điều đó sẽ an bài tất cả mọi thứ.
(Xem: 1865)
Trụ là ở chùa; Trì là gìn giữ trông nom chùa. Nghĩa là đối với sự uỷ thác của thập phương tín thí, nhân dân sở tại phải hết tâm, hết sức.
(Xem: 2040)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 2611)
Quốc gia nào cũng vậy, bên cạnh những cái đẹp vẫn có cái xấu. Nếu cái tốt nhiều, cái xấu ít thì không đáng lo ngại.
(Xem: 3671)
Trong cuộc sống thường ngày có nhiều người rất dễ rơi vào tình trạng đau khổ, bởi vì có quá nhiều áp lực, nhiều gánh nặng, nhiều ưu tư, nỗi buồn trong lòng.
(Xem: 2287)
Những thành bại, được mất, hơn thua, tranh đoạt, tham vọng và thù hận v.v… sẽ chẳng có giá trị gì nếu như gần kề với cái chết.
(Xem: 2289)
Theo Thế Tôn, người tu mà không có lòng tin thiện pháp là một biểu hiện của bần cùng.
(Xem: 1665)
Cây phong đầu ngõ đã dần dần chuyển sắc lá. Lá vàng chen lá xanh. Lác đác vài chiếc lá phong chỉ mới úa vàng đã rơi quanh gốc, không theo tiến trình sinh trụ hoại diệt của thiên nhiên.
(Xem: 1978)
Các vị thiền sư tu tập theo pháp Phật khẳng định rằng tuy tâm khônghình dáng nhưng chúng ta có thể phân biệt được lúc nào tâm khỏe mạnh và lúc nào tâm bệnh hoạn.
(Xem: 2315)
Hôm trước, tôi có chia sẻ một phương cách để đối trị vọng tưởng, tâm chạy đi lang thang chỗ này chỗ kia bằng cách...
(Xem: 2313)
Khi có một điều không may mắn, bất như ý xảy đến thì đa phần chúng ta đều nghĩ và thậm chí đổ lỗi là do nghiệp.
(Xem: 2153)
Buông bỏ tất cả để tu hành vốn không bị xem là ích kỷ, thậm chí đó là cao thượng nhưng rũ bỏ trách nhiệm trước một thực trạng gia đình ngổn ngang là không thể chấp nhận, đáng bị phê phán.
(Xem: 3115)
Pháp luân nghĩa là bánh xe Phật pháp. Dhamma trong tiếng Pali (Nam Phạn) có nghĩa là Pháp Bảo, lời dạy từ Đức Phật.
(Xem: 2129)
Nghiệp nói cho đủ là nghiệp quả báo ứng, tức đã gây nhân thì có kết quả tương xứng, và quả đến sớm hay muộn khi hội đủ nhân duyên, hội đủ điều kiện.
(Xem: 2529)
Đây là một lời dạy phù hợp với cái nhìn sâu sắc cốt lõi của Phật giáo: rằng chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta có một cái tôi.
(Xem: 2048)
Một nhóm sinh viên đến chùa để tìm hiểu về đạo Phật và kiến trúc chùa nhằm phục vụ cho chương trình học. Có một em tự giới thiệu mình là tín đồ của đạo Thiên Chúa.
(Xem: 1979)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”
(Xem: 2186)
Đời người như một giấc chiêm bao, sinh-lão-bệnh-tử là điều hiển nhiên không ai tránh khỏi, cuối con đường bóng xế ngả chiều ta rời bỏ nơi đây với bàn tay không.
(Xem: 2478)
Đức Phật không phải là một vị Thượng đế, vậy thì tại sao giáo huấn của Ngài là một tôn giáo và tại sao Phật tử tôn thờ Ngài như Thượng đế?
(Xem: 2053)
Xưa nay, nhân loại vẫn mơ ước một thứ ngôn ngữ chung, một thứ ngôn ngữ trực tiếp phản chiếu và thông diễn mọi sắc thái của thực tại sống động
(Xem: 2446)
Giáo pháp tứ y trong đạo Phậtgiáo pháp nói về bốn phương pháp thực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ giải thoát.
(Xem: 2409)
Giáo pháp của Đức Phật tuyên thuyết là một sự trải nghiệm sinh động mang tính ứng dụng rất thiết thực chứ không phải là những giáo thuyết
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant