Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giáo sư Alex Berzin trả lời những câu hỏi của Tuệ Uyển

07 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 13022)
Giáo sư Alex Berzin trả lời những câu hỏi của Tuệ Uyển

GIÁO SƯ ALEX BERZIN
TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI CỦA TUỆ UYỂN

 

1.- HỎI: Thưa giáo sư, tại sao giáo Sư quyết định nghiên cứu Đạo Phật?

ĐÁP: Tôi luôn luôn thích thú với Đạo Phật từ lúc rất trẻ, đặc biệt đối với truyền thống Tây Tạng. Khi tôi học hỏi nhiều hơn về điều này, tôi thấy rằng Đạo Phật đã cho tôi những trả lời tuyệt vời nhất đến những vấn đề mà tôi có về việc những cảm xúctâm thức hoạt động như thế nào. Giáo huấn nhà Phật đã thể hiện trọn vẹn ý nghĩa đối với tôi.

2.- HỎI: Giáo Sư quyết định nghiên cứu Đạo Phật vào lúc nào?

ĐÁP: Mặc dù tôi đã đọc sách vở về Đạo Phật từ năm tôi vừa 14 tuổi, nhưng tôi đã quyết định học hỏi chính thức tại Đại Học vào năm 1962, khi tôi vừa 17 tuổi.

3-HỎI: Khi nào Giáo Sư quyết định trở thành một hành giả Phật Giáo?

ĐÁP: Vào năm 1969, khi tôi ở Ấn Độ nghiên cứu với cộng đồng Tây Tạng ở đấy.

4.-HỎI: Tại sao Giáo Sư quyết định trở thành một hành giả Phật Giáo?

ĐÁP: Trong khi học hỏi Đạo Phật và những ngôn ngữ Á châu (Phạn, Tạng, Hoa, và Nhật ngữ) tại Đại Học Harvard, tôi đã cố gắng hình dung sự thực hành của Đạo Phật giống như thế nào. Nhưng tôi không có lối vào của một truyền thống Phật Giáo sống động. Khi tôi gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma lần đầu tiên vào năm 1969, tôi đã thấy rằng Đạo Phật là một truyền thống năng động và có thể nghiên cứu học hỏi để đưa vào thực hành từ những đạo sư Tây TạngẤn Độ.

5.- HỎI: Có những thay đổi nào trong tâm tư của Giáo Sư từ một năm đến năm năm, mười năm, hai mươi năm, và ba mươi năm trong khi Giáo Sư ở Ấn Độ nghiên cứu học hỏithực hành Phật Pháp?

ĐÁP: Trải qua những năm tháng, tâm thức tôi dần dần ngày càng trở nên tĩnh lặng hơn và trong sáng hơn, và những cảm xúc phiền não giảm thiểu sức mạnh của chúng. Những phẩm chất tích cực của tôi đã phát triển hơn và tôi đã học hỏi làm thế nào để liên hệ với mọi người trong một cung cách lợi lạc nhiều hơn.

6.- HỎI: Điều gì ấn tượng nhất và thay đổi trong tâm thức của Giáo Sư trong khi thực hành Phật Pháp cũng như hiện nay?

ĐÁP: Tôi nghĩ tôi đã trở nên ít vị kỷ hơn, rộng lượng hơn và đã đạt được sự quân bình. Tôi khách quan hơn với những cư xử của tôi trong đời sống hằng ngày.

7.- HỎI: Giáo Sư nghĩ về cõi Cực Lạc của Đức Phật Di Đà?

ĐÁP: Trong truyền thống Tây Tạng, không có một tông phái Tịnh Độ riêng biệt, nhưng đúng hơn trong giáo lý cho việc di chuyển thần thức (powa) đến cõi Cực Lạc được thấy trong tất cả bốn truyền thống của Đạo Phật Tây Tạng. Tôi hết sức tôn trọng những giáo huấn này.

8.- HỎI: Giáo Sư có phát nguyện vãng sinh Cực Lạc không?

ĐÁP: Theo truyền thống Tây Tạng, có hai phong cách đối với việc hành hoạt của một vị Bồ Tát để đạt đến giác ngộ và hỗ trợ tất cả những người khác. Một là tái sinh liên tục trong thế giới này và cố gắng để giúp người khác trong việc độ sinh một cách tối đa trong sự tiến triển dần dần trên con đường giác ngộ. Một phong cách khác là phát nguyện sinh về Cực Lạc nhằm để đạt đến giác ngộ một cách nhanh chóng hơn, vì vậy có thể có lợi thế để hổ trợ người khác tốt đẹp hơn. Cá nhân tôi liên hệ với phong cách thứ nhất. Mặc dù tôi không thể giúp đỡ người khác một cách hoàn toàn bây giờ, nhưng tôi nguyện không rời khỏi thế giới này để đến Cực Lạc ngay cả trong một thời gian ngắn, trong khi những chúng sinh khác đang đau khổ quá nhiều.

9.- HỎI: Giáo Sư nghĩ gì về những người phát nguyện vãng sinh Cực Lạc?

ĐÁP: Nếu động cơ của họ là thuần khiết – nếu người ta nguyện sinh ở về Cực Lạc vì thế có thể đạt đến giác ngộ ở đấy một cách nhanh chóng và có thể trở lại ngay lập tức để giúp đở người khác – thế thì tôi ngưỡng mộ họ rất nhiều. Nếu người ta phát nguyện vãng sinh Cực Lạc với động cơ duy nhấtmong ước trốn thoát khỏi sự khổ đau của riêng họ và đi tới một cõi An Nhàn, và họ không có tư tưởng về việc giúp đở người khác, thế thì tôi nghĩ họ cần hành động nhiều hơn trong việc phát triển lòng từ bi. Từ bi là một phẩm chất quan trọng nhất để phát triển.

10.- HỎI: Tôi đã đọc và dịch BÀI PHÁT NGUYỆN VÃNG SINH CỰC LẠC[1] của Tổ sư Tông Khách Ba (từ quyển Cuộc đờigiáo huấn của Tông Khách Ba). Xin Giáo sư nói về duyên khởi của bài này và điều gì Giáo sư biết về Tông Khách BaTịnh Độ.

ĐÁP: Giáo lý di chuyển thần thức (Powa[2]) có trong vài mật điển tantra, nhưng được đặt chính yếu trong Sáu Yoga của Naropa. Những bài viết chính của Tông Khách Ba về Tịnh Độ là trong phạm vi của những giáo lý di chuyển thần thức. Liên hệ đến điều này, ngài đã viết luận giải về Sáu Yoga của Naropa, cũng như một vài bài viết ngắn hơn về đề tài này.

Đức Văn Thù đã soạn thảo và hướng dẫn Tông Khách Ba "Phát Nguyện Vãng Sinh Cực Lạc" và "Ca Tụng Đức Di Lặc". Tông Khách Ba đã viết thành văn những bài này chẳng bao lâu khi ngài khôi phục đại tượng Văn Thù, là điều được xem như công việc to lớn đầu tiên của ngài. Việc thực hành đạo sư du già (guru-yoga) của Tông Khách Ba hoàn tất với việc trì tụng mật ngôn "Một trăm vị Bổn tôn của Đâu Suất" và quán tưởng Tông Khách Ba và hai đệ tử chính của ngài phát xuất từ trái tim của Di LặcTịnh Độ Đâu Suất. Điều này cho thấy rằng Tông Khách Ba bây giờ không tách rời với Đức Di Lặc ở Tịnh Độ Đâu Suất.

11.- HỎI: Đối với Phật Giáo Viễn Đông, cõi Tịnh Độ của Phật Di Đà được biết như ở ngoài vòng sinh tử luân hồi, trong khi Đâu Suất được xem như là một cõi trời trong tam giới, và người duy nhất mà tôi biết đã phát nguyện tái sinh về cõi Đâu Suất để học thêm Duy Thức với Bồ tát Di LặcĐại Pháp sư Huyền Trang của Trung Hoa (thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên). Nếu một người nào đấy có thể đi đến Shambhala và lấy một loại hoa quả nào đấy[3] (trong Hành Trình về Phương Đông, có những người có thể làm cho hoa quả trái mùa xuất hiện ngay trên tay họ), thế thì cũng có những người có thể đến cõi Tịnh Độ của Phật Di Đà[4]trở lại ngay, dĩ nhiên bằng năng lực thần thông siêu nhiên của những vị chứng đạo, và trong truyền thống của Tịnh Độ ở Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam cũng có những câu chuyện như thế. Giáo sự tin tưởng như thế nào trong câu này: "BERZIN: Serkong Rinpoche đã nói với tôi rằng cha của ngài là Serkong Dorjechang đã từng đi đến Shambhala và đã đem về bông hoa và trái cây, mà họ đã để trong nhà của họ.[5]"

ĐÁP: Theo Phật Giáo Tây Tạng, Tịnh Độ không phải là một bộ phận của cõi luân hồi, mà ở ngoài nó. Vì thế cõi Tịnh Độ Đâu Suất nơi Bồ tát Di Lặc cư ngụ không phải là cõi trời Đâu Suất nơi chư thiên ở. Và vâng, tôi nghĩ có thể có những người có thể đến đấy và trở lại với những giáo huấn và hoa trái, v.v..., nhưng thật vô cùng hiếm hoi.

12.- HỎI: Tôi đã tham dự lễ truyền pháp Di Đà của Đức Đạt Lai Lạt Ma ở San Jose năm ngoái. Vậy thì nếu bốn truyền thống Tây Tạng cũng có phương pháp di chuyển thần thức Powa các vị thầy thật sự nhắn nhủ về điều gì khi truyền dạy phương pháp này?

ĐÁP: Mỗi vị thầy giảng dạy một cách tự nhiên về phương pháp cá nhân của họ. Trong luận giải về sáu Yoga của Naropa, Tông Khách Ba nhấn mạnh rằng để phương pháp Powa được thành công, hành giả cần phải được thọ lĩnh một lễ quán đỉnh mật tông tantra thích đángtuân thủ tất cả các quy luậtthệ nguyện một cách trong sạch. Ngài trích dẫn trong Mật điển Kim Cương Thủy Bồ tátluận giải Tri Thức trong sự thực hành Mật ngôn và Mật thừa trong Chaturipita Tantra rằng hành giả cũng cần phải rèn luyện hơi thở tịnh bình và nội hỏa tam muội. Họ cũng cần hoàn tất những sự thực hành tầng bậc phổ thông của Tantra Yoga Tối Thượng, chẳng hạn như quán tưởng chính họ trong hình sắc của bổn tôn, trấn bảy huyệt với quán tưởng tự mẫu, v.v... Những vị thầy của tôi khi dạy luận giải của Tông Khách Ba về Sáu Yoga Naropa, đã giải thích rằng di chuyển thần thức Powa đến Tịnh độ là một trợ pháp mà hành giả thực hiện chỉ trong trường hợp họ không có nhiều tiến triển với những sự thực hành mật tông tantra chính yếu trong một kiếp sống. Tôi không biết những vị thầy khác giải thích về những thực tập này.

Tôi chưa bao giờ tiếp nhận bất cứ sự giảng dạy nào về Tịnh Độ Tông Việt Nam. Nhưng sự hiểu biết của tôi là những truyền thống Tịnh Độ của Viễn Đông căn cứ trên kinh Trang Nghiêm Tịnh Độ và thuần là sự thực hành theo kinh thừa [Đại thừa hiển giáo]. Trong những truyền thống Tây Tạng, giáo huấn Tịnh Độ chỉ trong phạm vi của sự thực hành Tantra yoga Tối thượng[6].

13.- HỎI: Giáo sư nói trong "Nghiệp Báo và thảm họa thiên nhiên[7]" rằng: "Chỉ nếu những người này biết Đức Phật Di Đà khi Ngài là một vị Bồ tát và nguyện được sinh một cách đặc biệt trong cõi Tịnh Độ của Ngài sau khi Ngài trở thành Phật thì lời cẩu nguyện của họ mới có thể đơm hoa kết quả chín muồi trong cõi Tịnh Độ Di Đà như kết quả bao hàm toàn diện của họ." Vậy thì, giáo sư có nghĩ rằng những vị thầy truyền dạy phương pháp di chuyển thần thức Powa và những hành giả của phương pháp này có biết Đức Phật Di Đà "khi Ngài là một vị Bồ tát" không?

ĐÁP: Câu này chỉ ra loại cầu nguyện của hành giả hoạt động như một nguyên nhân cho sự hiện hữu của cõi Tịnh Độ Di Đà. Họ phải thực hiện trước khi Đức Phật Di Đà đạt đến giác ngộ và trước khi Ngài hóa hiện cõi Tịnh Độ của Ngài. Câu này không phải nói về loại cầu nguyện hoạt động như một nguyên nhân để được sinh ra trong cõi Tịnh Độ Di Đà. Những cầu nguyện như vậy có thể được thực hiện trước hay sau khi Đức Phật Di Đà đạt đến giác ngộ. Do thế, không phải là trường hợp mà tất cả các vị thầy và hành giả thực tập Powa đã có bất cứ sự nối kết nào với Đức Phật Di Đà khi Ngài còn là một vị Bồ tát. Một số có và một số thì không.

14.- HỎI: Trong "Bạn có tin tưởng tái sinh không?[8]" giáo sư nói rằng: "Quý vị cũng cần thăng tiến đến một tầng bậc nào đấy trong con đường mật thừa tantra và có một quyết tâm thật mạnh mẽ để tái sinh trong một hình thể vì thế quý vị có thể hổ trợ mọi người." Từ kinh nghiệm của giáo sư gần ba mươi năm nghiên cứuthực hành tantra ở Dharamsala [từ năm 1969] cho đến bây giờ thì việc đạt đến tầng bậc ấy khó dễ như thế nào? Giáo sư đã đạt đến tầng bậc ấy hay chưa?

ĐÁP: Như những gì tôi biết, có khoảng một nghìn dòng lạt ma hóa thân đã được xác định. Dĩ nhiên, những sự xác chứng này có thể không đúng hẳn, và có thể có một số lạt ma hóa thân chưa được tìm thấy và xác định. Tôi nghĩ thật là khó khăn để đạt đến tầng bậc ấy là điều có thể bắt đầu một dòng lạt ma hóa thân. Tôi không có ý kiến gì về việc tôi đã đạt được trình độ ấy hay chưa trong sự thực hành của chính tôi, mặc dù tôi dâng hiến những lời nguyện cầu và thực tập cần mẫn để đạt được trình độ ấy.

15.- HỎI: Trong trường hợp của những vị lạt ma cao cấp (các vị đã được xác chứng hóa thân), khi các ngài viên tịchtái sinh, rồi thì có những người sẽ đi tìm họ, chăm sóc cho họ, và dạy dỗ cho họ cho đến khi họ trở thành những vị thầy thật sự. Giáo sư nghĩ gì về trường hợp riêng của giáo sư, và những hành giả thông thường khác?

ĐÁP: Tôi không có ý kiến về việc có ai đấy sẽ đi tìm tôi hay không. Nhưng tôi đã nói với vị thầy tái sinh của tôi hiện nay 27 tuổi, Serkong Rinpoche [9], rằng nếu có một thiếu niên nam hay nữ đi đến trước cửa của ngài với một sự thích thú vô cùng trong trang website của tôi và học hỏi với ngài, thì ngài hãy vui lòng chú ý đến thiếu niên ấy. Ngài đã đồng ý.

16.- HỎI: Tôi sẽ chuyển ngữ bài "Tránh Tộn Lẫn Tự Ngã (ego) với Sự Thực Hành Phật Pháp". Xin Giáo Sư hãy thích rõ hơn ý nghĩa của 'ego' trong bài này. Nó liên hệ đến vị kỷ hay cá tính, hay gì khác?

ĐÁP: Ego liên hệ đến một ý nghĩa của một 'cái tôi' thổi phồng, với nó chúng ta nghĩ về chính chúng ta như một biểu hiện cụ thể, có thể tìm thấy và cứng nhắc, mà nó quan trọng hơn những người khác và phải luôn luôn có cung cách riêng của nó. Suy nghĩtin tưởng trong cách này làm nên tự ngã và vị kỷ.

17.- HỎI: Trong "Tránh trộn lẫn tự ngã với sự thực hành Phật Pháp" giáo sư nói rằng: "Tuy nhiên, cho đến khi chúng ta giải thoát như những vị a la hán, chúng ta vẫn chấp trước vào sự hiện hữu thật sự có thể tìm thấy của một "cái tôi"." Vậy thì a la hánsự giải thoát toàn hảo của một "cái tôi". Một số người chọn lựa trình độ này cho mục tiêu của họ, họ không cần biết đến tầng bậc giác ngộ, vì họ nghĩ rằng như thế đã đầy đủ cho chính họ. Tuy nhiên tôi thấy rằng một số người mà mục tiêu của họ là đạt đến giác ngộ của Phật Quả, nhưng lại chống đối [kịch liệt] tầng bậc giải thoát dường như rằng trình độ giải thoát là điều gì đấy hoàn toàn tách biệt với Phật Quả. Tôi biết rằng trong con đường tiệm tiến Lamrim[10], giải thoát là bước nền tảng trước khi đi đến tầng bậc giác ngộ. Giáo sư có ý kiến gì về điều này?

ĐÁP: Giải thoát là một tầng bậc trên con đường giác ngộ. Với giải thoát chúng ta tự tại với nghiệp báo, vô minh (bất giác về thực tại) và những cảm xúc phiền não cùng những xu hướng của chúng, nhưng chúng ta vẫn còn có thói quen quán tính của chấp trước vào sự hiện hữu thiết lập chân thật (pháp chấp). Đây là những chướng ngại ngăn trở toàn tri toàn giác. Như một vị Phật giác ngộ chúng ta tự tại với những thứ này. Một vị Bồ tát đạt được giải thoát như một vị a la hán bồ tát trên con đường trở thành một vị Phật. Nhưng ngài không dừng ở đấy; ngài sẽ hoạt động xa hơn để đạt đến giác ngộ. Một vị Thinh Văn La Hán hay một vị Độc Giác Phật không mong ước để tiến xa hơn. Tuy thế, họ có thể phát bồ đề tâm như một vị a la hán và họ sẽ hành động hơn nữa để tiến tới giác ngộ.

18.- HỎI: Tôi đã chuyển ngữ "Đạo đức tình dục Phật Giáo[11]," "Đạo đức tình dục Phật Giáo: Chuyện ấy ngoài hôn nhân[12]" , và phân nửa bài "Đạo đức tình dục Phật Giáo: Tiến độ lịch sử," và tôi nghĩ những ý tưởng này không khác biệt nhiều với đạo đức tình dục truyền thống ở Viễn Đông, và đây là nền tảng cho đạo đức tình dục của Tây Tạng là kết quả của "So sánh với nhiều nơi ở Ấn Độ, Dharamsala khá sạch sẽ. Cũng một cách đáng chú ý, không có dấu hiệu của mãi dâm, cho dù che dấu thế nào đi nữa"[13]. Giáo sư nghĩ gì về điều này? Có phải đây là điều tuyệt nhất của một xã hội không? Có bất cứ một quốc gia phát triển hay đang phát triển cần phải như thế, hay muốn như thế không? Giáo sư so sánh thế nào giữa đạo đức tình dục Phật Giáo (trong phạm vi những bài viết này) và đạo đức tình dục phổ thông ở phương Tây ra sao? Như giáo sư nói, và tôi cũng nghĩ, những gì các bậc thầy lớn đã nói về đúng hay sai không phải về tội lỗi mà về nghiệp báo, nghiệp thiện hay nghiệp ác, giải thoát hay vướng mắc. Tuy thế, ngày nay, giáo sư có thể nói rằng những người đồng tính luyến ái không thể thực hành mật tông tantra hay ngay cả không thể là Phật tử hay không? Hay phải lãng tránh họ? Hay phải có một hoạt động Phật Pháp đặc biệt cho họ?

ĐÁP: Dharamsala không phải là một vườn địa đàng. Có nhiều loại người khác nhau sống ở đấy - Tây Tạng, Ấn Độ, Nepal và nhiều người ngoại quốc du lịch. Một cách tổng quát, hầu hết mọi người ở đây giữ gìn đạo đức khá tốt, nhưng dĩ nhiên không phải mọi người đều toàn hảo. Tôi nghĩ sự kiện là Đức Đạt Lai Lạt Ma và nhiều vị đại lạt ma sống ở đấy có một ảnh hưởng trong không khí chung của khu vực. Đối với những người đồng tính luyến ái không có trở ngại cho việc trở thành một Phật tử hay trong việc thực hành mật tông tantra. Hiếm có ai mà đạo đức hoàn toàn thanh tịnh 100%, và hầu hết mọi người đều phạm phải một vài loại thái độ tiêu cực nào đấy làm nguyên nhân cho khổ đau. Những người đồng tính luyến ái có thể có khó khăn trong việc thực hành những tầng bậc phát triển nhất của tantra, nhưng điều đó không có nghĩa họ không thể thực hành. Tuy nhiên, hầu như không có ai đạt đến tầng bậc ấy, nên không có rắc rối gì.

19.- HỎICó gì khác biệt giữa "tâm - mind" và "tim - heart" như trong "Đánh thức tâm, Thắp sáng tim."[14]?

ĐÁP: Trong Anh ngữ và nhiều ngôn ngữ khác, chúng ta phân biệt tâm như phần suy nghĩlý trí và tim như phần xúc động của tình cảm. Trong Phạn ngữ citta bao gồm cả tâm và tim.

20.- HỎI: Tôi đã chuyển ngữ phân nửa bài "Khái niệm của Đạo Phật về Phước đức: có phải hạnh phúc cần phải kiếm được?" Tôi không chắc là tôi hiểu trọn ý kiến của giáo sư không vì giáo sư nói "merit" là một chữ hoàn toàn sai nhưng giáo sư không cho một từ ngữ mới thay vì thế là một chữ Đức ngữ "verdienst". Nên tôi muốn kể câu chuyện của Bồ Đề Đạt MaLương Võ Đế để xem nó có liên hệ hay không đến đề tài này: 

Bồ Đề Đạt Ma gặp Lương Võ Đế lần đầu tiên khi ngài đến Trung Hoa từ Ấn Độ. Khi ngài ở trước mặt Lương Võ Đế, nhà vua hỏi ngài:

- Từ ngày lên ngôi tôi đã cất chùa, độ tăng thọ giới không biết bao nhiêu mà kể. Như vậy công đức có nhiều chăng?

- Tổ đáp: Không có công đức gì cả! Công đức là từ nơi pháp thân, không phải từ nơi việc làm. Từ nơi việc làmphước đức chứ không phải công đức

Phước đức là để hưởng quả báu tốt đẹp nhưng giới hạn ở cõi nhân thiên. Công đức là cho việc giải thoát giác ngộvô giới hạn.

ĐÁP: Trong đoạn thứ tư của bài, câu đầu tiên: "Tôi đưa ra để chuyển dịch khái niệm từ Phạn ngữ hay Tạng ngữ như "những khả năng tích cực" hay "năng lực tích cực," bởi vì đây là điều gì đấy sinh khởi như một kết quả của hành động xây dựng và nó rồi thì sẽ chín muồi thành hạnh phúc. Tôi đưa sự chuyển dịch của tôi cho Phạn ngữ "punya" hay "phước đức" là "những khả năng tích cực" hay "năng lực tích cực," hay “positive potentials” or “positive force,” thay cho "merit".

21.- HỎI: Giáo sư nghĩ gì về phước đức (conventional merit) và công đức (essential merit) nó có liên hệ gì đến bài trên của giáo sư: Khái niệm của Phật Giáo về Phước đức?

ĐÁP: Tôi chưa xem qua những thuật ngữ này trong Tạng ngữ, nhưng những gì ông gọi là công đức (essential merit) nghe như hệ thống của năng lực tích cực (the network of positive force - Punyasmbhara) đấy là một khía cạnh của Phật tính. Tôi có liên hệ một cách tóm tắt ở phía dưới của bài:

Từ quan điểm của Đạo Phật, hạnh phúc kết quả từ những 'năng lực tích cực' [phước đức] của chúng ta.

Những gì Đạo Phật nói là, như một bộ phận của Phật tính, chúng ta có một năng lực tích cực nào đấy. Biểu hiện kinh điển cho điều này là như một bộ phận của Phật tính của chúng ta, chúng ta có một "tích tập của phước đức".

Tôi đã thảo luận điều này khá trọn vẹn trong một khóa tu cuối tuần mà tôi đã thuyết giảng ở Mạc Tư Khoa vào tháng Tư năm 2011, mà tôi đang hiệu đính và đưa lên mạng trong dạng ghi âm gần đây. Rồi thì tôi sẽ ghi lại trên văn tự.

Cũng có sự khác biệt giữa năng lực tích cực xây dựng trong cõi luân hồinăng lực tích cực thiết lập cho giác ngộ. Tôi đã thảo luận trong Hai hệ thống thiết lập giác ngộ (The Two Enlightenment-Building Networks), nhưng tôi thảo luận một cách trọn vẹn hơn trong khóa tu học ở Mạc Tư Khoa vào tháng Tư năm 2011.

Tuệ Uyển: Xin chân thành cảm ơn giáo sư.

TÓM TẮT TIỂU SỬ CỦA GIÁO SƯ ALEXANDER BERZIN

blankBerzin sinh tại Paterson, New JerseyHoa Kỳ. Ông nhận bằng cử nhân năm 1965 tại Khoa Nghiên cứu Đông phương họcĐại học Rutgers liên kết với Đại học Princeton], nhận bằng Thạc sĩ năm 1967, bằng Tiến sĩ năm 1972 của Khoa Ngôn ngữ học Viễn đông (Hoa ngữ) và Khoa Nghiên cứu Ấn ĐộPhạn ngữĐại học Harvard.

Từ năm 1969 đến 1998, ông cư trú chính yếu ở DharamsalaẤn Độ ban đầu như một học giả của chương trình Fulbright, nghiên cứuthực hành với những đạo sư từ tất cả bốn truyền thống Phật Giáo Tây Tạng. Vị thầy chính của ông là Tsenzhab Serkong Rinpoche, vị Thầy Tranh LuậnGiáo Thọ phụ trợ của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ông phục vụ như một thông dịch viên và thư ký trong chín năm, và tháp tùng với ngài trong vài chuyến du hành khắp thế giới. Ông cũng phục vụ như một thông dịch viên trong vài trường hợp cho Đức Đạt Lai Lạt Ma

Như một thành viên sáng lập của Văn phòng Phiên dịch của Thư viện Hoạt động và Lưu trử của Tây Tạng, Berzin đã triển khai một thuật ngữ học mới cho phiên dịch, vào Anh ngữ, và thuật ngữ kỷ thuật mới trong Tạng ngữ thường bị hiểu sai lạcHoạt động với những thông dịch viên trong nhiều ngôn ngữ khác nhau, ông đã giúp họ duyệt xét lại và phát triển thuật ngữ học của họ phù hợp với cùng những nguyên tắc.

Từ năm 1983, Berzin đã du hành vòng quanh thế giới, giảng dạy nhiều khía cạnh đa dạng về thực hành và triết lý của Đạo Phật, cũng như lịch sử Tây Tạng - Mông Cổlý thuyết chiêm tinh - y học, tại những trung tâm Phật Pháp và những trường đại học trong hơn bảy mươi quốc gia. Những cuộc du hành của ông tập trung một cách chính yếu trên những thế giới cộng sản cũ và hiện tại, Mỹ châu La tinh, Phi châu, Trung Á, và Trung Đông. Thêm nữa, nhiều tác phẩm và dịch phẩm của ông, nhiều bải giảng của ông đã được xuất bản trong ngôn ngữ địa phương ở những nơi này.

Berzin đã phục vụ như mối liên hệ không chính thức của một vài dự án quốc tế về văn hóa Tây Tạng - Mông Cổ, như chương trình cứu hộ y học Tây Tạng cho những nạn nhân của nhà máy điện hạt nhân Chernobyl với Bộ Y tế Nga và chương trìnhMông Cổ cho Tổ chức Gere[15] sản xuất sách vở về Đạo Phật trong những ngôn ngữ bình dân để giúp tái lập văn hóa truyền thống. Ông cũng làm công cụ cho việc thiết lậpxúc tiến một sự đối thoại Phật Giáo - Hổi Giáo.

Năm 1998, ông trở lại phương Tây và viết sách nhiều hơn cùng giảng dạy Giáo Pháp tại một số trung tâm, nhưng ông cống hiến nhiều thời gian hơn để chuẩn bị những tư liệu chưa xuất bản từ trang web Berzin Archives. Trang web chứa đựng nhiều tài liệu Phật Giáo chưa phổ thông trong ngôn ngữ Tây phương. Ông hiện đang sống ở thủ đô Bá Linh, Cộng Hòa Liên Bang Đức.

Tuệ Uyển chuyển ngữ

Ẩn Tâm Lộ ngày 26/06/2011

http://www.berzinarchives.com/web/en/about/author/short_biography_alex_berzin.html



[1] BÀI PHÁT NGUYỆN VÃNG SINH CỰC LẠC
[2] THIỀN QUÁN VỀ ĐỨC PHẬT VÔ LƯỢNG QUANG
[5] Xem Kalachakra vấn đáp phần 1
[6] Mật điển Du Già Vô Thượng
[7] http://hoavouu.com/D_1-2_2-86_4-11097_5-75_6-4_17-566_14-1_15-2/
[8] http://hoavouu.com/D_1-2_2-57_4-16315_15-2/
[9] Vị thầy chính của Giáo sư Berzin, sinh ngày 27 tháng Bảy năm 1914, viên tịch ngày 20 tháng Tám năm 1983 và đã tái sinh lại vào 29 tháng Năm 1984.
[10] xin đọc Bừng Sáng Con Đường Giác Ngộ
http://hoavouu.com/D_1-2_2-57_4-13430_5-75_6-5_17-346_14-1_15-2/
[11] http://hoavouu.com/D_1-2_2-227_15-2_4-16398/
[12] http://www.khoahoc.net/baivo/tueuyen/110310-chuyenayngoaihonnhan.htm
[13] Xem Bên Lề Hào Nhoáng - http://hoavouu.com/D_1-2_2-59_15-2_4-16383/
[14] tên một tác phẩm của Đức Đạt Lai Lạt Ma: Awakening the mind, lightening the heart.
[15] The Gere Foundation: một tổ chức từ thiện của tài tử điện ảnh Hoa Kỳ Richard Gere phụng sựnhân quyềnTây Tạng.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 51)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 46)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 63)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 87)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 171)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 199)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 215)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 195)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 223)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 261)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 231)
Chết an lành là mong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 227)
Pháp giới là vũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 429)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 255)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 366)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 298)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 287)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 265)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 372)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 370)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 486)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 359)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 620)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 388)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 421)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 581)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 490)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 412)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 717)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 459)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 518)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 461)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 461)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 477)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 480)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 405)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 536)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 871)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 896)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 735)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1081)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 546)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 515)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 594)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 617)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 593)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 587)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 755)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 653)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 796)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant