Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngày cuối lễ Kalachakra tại Hoa Kỳ

20 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 11222)
Ngày cuối lễ Kalachakra tại Hoa Kỳ

NGÀY CUỐI LỄ KALACHAKRA TẠI HOA KỲ
Minh Mẫn

blankLễ cầu nguyện hòa bình thế giới của Đức Đạt Lai Lạt Ma tổ chức tại Washington DC đã chấm dứt sau 11 ngày. Đây là cuộc lễ kéo dài nhiều ngày nhất và quan trọng nhất, vì, ngoài lễ cầu hòa bình, còn kèm chúc mừng sinh nhật và truyền quán đỉnh đặc biệt.

Những ngày trước, ngoài cuộc lễ trang nghiêmchí thành ra, Ngài luôn có buồi thuyết giảng cho quần chúng.

Đối với Ngài, thuyết giảng quan trọng hơn lễ Quán đỉnh Kalachakra.

Qua những buổi giảng, Ngài hy vọng thính chúng sẽ chuyển hóa nội tâm, tự thân có an ổn thì xã hội mới có hòa bình.

Thời gian lưu lại Hoa Kỳ, Ngài đã gặp Quốc hội, chiều thứ bảy, lúc 2 giờ, được Tổng Thống Mỹ, Obama tiếp đón.

Đây là điểm mà Obama xác định thái độ dứt khoát với Trung Quốc.

Ngày mãn đàn, sau thời kinh chung kết, hồi hướng cho nền hòa bình nhân loại, Ngài tiếp tục giảng pháp cho đại chúng.

Về ngoại giao, các đoàn thể tôn giáo và chính trị, đều có người đến chúc mừng, trong đó một vị Hồng y của Vatican, có Martin Luther King III, cháu nội Thánh Gandhi.

Nhật, Nam Triều Tiên, và một số văn nhân trí thức, nghệ sĩ, diễn viên… cũng cử đại diện đến tham dự.

Washington DC tuy là một bang của Mỹ, nhưng là thủ phủ Hoa Kỳ, tổ chức lễ Kalachakra tại đó mang tầm quốc tế.

Về mặt tổng thể, khá chu tất và thành công tốt đẹp, ngoại trừ khâu làm thẻ và lúc phát thẻ, nếu khôngcộng đồng Phật tử Việt Nam hỗ trợ, chắc chắn họ sẽ gặp nhiều lúng túng.

Theo báo cáo của ban tổ chức, chi phí hết 4 triệu USD, thu nhập 5.9 triệu, số thặng dư chia làm nhiều phần để ủng hộ Tsunami Nhật, cư dân homeless tại Washington DC, cộng đồng Tây Tạng Canada, Châu Phi…

Họ đã công khai tài chính ngay ngày cuối.

Về nhân cách của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tướng mạo của gấu và âm giọng của sư tử nói lên tính đặc thù của một chính vị vương.

Ngài vẫn chưa phai nhòa cách đi đứng của một tộc Tạng sống vùng cao nguyên và phong cách bình dị của một nông dân. Tính bình đẳng thể hiện qua cách tiếp xúc với một Tổng thống cũng như lúc trò chuyện với một người thường dân.

Trong khi làm lễ, một người quá ái mộ Ngài, họ tiến lên lễ đài để cúng dường Ngài chiếc mũ, dĩ nhiên bị bảo vệ ngăn, Ngài vẫy tay bảo họ tiến đến, nhưng bảo vệ nhận chiếc mũ trao lại Ngài, lật qua lật lại xem xét, Ngài đội lên đầu giữa tiếng vỗ tay hoan nghinh của đại chúng, rồi trả lại cho thiện chủ. Thể hiện tính bình đẳng và khiêm tốn trong mọi lúc mọi nơi.

Từ trên Pháp tòa cao, Ngài nhoài người về phía trước thật sát để choàng khăn cho các sư, các tình nguyện viên và những thành phần đặc cử.

blank
(Ảnh: http://www.dalailama.com/)
blank

Trên lễ đài, bên trái từ ngoài nhìn vào, các Lạt Ma kinh sư trưởng thượng trì tụng, Ngài Đạt Lai Lạt Ma ngồi giữa, phía tay mặt là vị sư và vài ni cô Việt Nam.

Chẳng hiểu sự hiện diện của các tu sĩ Việt Nam trên lễ đài là do ban tổ chức mời hay họ tự động chen lên. Nếu ban tổ chức sắp xếp thì chỉ dành riêng cho đoàn Phật giáo người Việt thôi sao? Đạo tràng do chư Tăng Tây Tạng hành lễ theo nghi Mật thừa Kim Cang tạng thì Tăng Ni Việt Nam lên ngồi đó để làm gì?

Phật giáo Việt Nam tại Mỹ không có ai đủ tầm vóc đạo đức và tuổi tác để đại diện lên dự lễ, những vị vô danh tiểu tốt lên lễ đài ngồi như pho tượng phỗng làm giảm uy tín của một đại lễ?

Phải chăng nhân sự người Việt trong ban tổ chức không thỉnh các thượng thủ Tăng già tại Mỹ hoặc tại Washington DC? Điều làm cho những ai hiểu giáo luật Phật giáo Bắc truyền đều ngỡ ngàng: Trong Pháp hội, duy nhất Đức Đạt Lai Lạt Ma đắp y 25 điều, các Lạt Ma khác đắp y 5 hoặc 7 điều. Nhưng một tu sĩ Việt Nam hơn 40 tuổi đời đã thượng lên chiếc y 25 điều ngang bằng với vị Pháp chủĐạo tràng và ngồi trên lễ đài, nói lên tính cao ngạo hiếu danh của một tu sĩ chưa đủ tưổi hạ mà đòi ngang bằng với Đức Đạt Lai Lạt Ma!!!

Vấn đề luộm thuộm trong nghi lễ Việt Nam cũng thế. Thầy Nguyên Tánh bảo không tán, thầy Minh Châu lại đòi tán, các cô ni kẻ tụng nghĩa, người tụng âm, vì thế thầy Giác Thiện tuy học nghi lễ từ thầy Lệ Trang ở Việt Nam, cũng ngần ngại quyết định, bởi cả nể chư Tăng trên đất khách.

Tình nguyện viên Việt Nam, Mỹ, Trung Quốc rất ư nhiệt tình. Ở Mỹ, việc xin nghỉ việc để làm công quả dài ngày như thế, rất khó, thế mà nhiều anh chị và cả gia đình đều thường trực có mặt trong những ngày qua tại Pháp hội. Suốt 11 ngày cung ứng gần ngàn xuất ăn trưa cho chư Tăng ni, tình nguyện viên và nhân viên bảo vệ, kể cả hoa quả trên lễ đài, chẳng những thế, còn phong bì cho toàn bộ tu sĩ khi mãn đàn.

Những ngày cuối, số lượng người tham dự gia tăng đáng kể, 20 ngàn người, chưa kể trẻ con, thế mà chưa ai than phiền, lớn tiếng va chạm, trẻ con cũng vui vẻ thích thú.

Mọi người tự động đứng lên mỗi khi thấy Ngài xuất hiện hoặc ra về. Ngài cười nói hồn nhiên phủ tràn năng lượng từ ái.

Giờ ăn trưa, một số người Tạng lớn tuổi tụ tập ngoài sảnh đường hát nhảy những vũ điệu đơn giản, nghèo tiết tấu của đời du mục trên cao nguyên Hy Mã, để nhớ lại một thời thái bình độc lập thuở xa xưa. Một vài người ngoại quốc cũng tham gia ủng hộ.

Tuy nhiên, trong khi chờ đợi Đức Đạt Lai Lạt Ma trở lại đạo tràng lúc Ngài đi gặp Tổng Thống Obama, nhóm nghệ sĩ Tây Tạng đến với thính chúng vài màn đơn ca, vũ điệu trữ tình giống như hát đối của Việt Nam, thể hiện nét lạc quan yêu đời mang tâm trạng hy vọng trở lại thời bình an của tộc Tạng, nhạc cụ dân tộc khá đơn điệu.

Kết thúc văn nghệ, nhóm nghệ sĩ phất phới cờ Tây Tạng, cả pháp hội vang dậy tiếng hoan hô.

Người nghe không tìm thấy âm điệu ủy mị của kẻ lưu vong. Trang phục phụ nữ với chiếc áo dài kín đáo và duyên dáng, nam giới trang phục cổ truyền luộm thuộm như thời du mục. Nét mặt thuần túy châu Á, âm giọng pha tạp Mông cổ.

MC trân trọng tri ân các mạnh thường quân, chính phủ bang, cộng đồng Việt Nam và những danh nhân tham dự để cho buổi lễ hoàn thành tốt đẹp.

Mạn Đà La thực hiện rất công phu theo một tiêu chuẩn nhất định; Đức Đạt Lai Lạt Ma làm lễ kết đàn gần 20 phút, giải đàn Mạn Đà La, số cát màu gom lại, một ít phân phối cho các Lạt Ma, số còn lại đích thân Ngài và ban kinh sư y mão tề chính, mang ra sông Potomac chú nguyện, rải.

Qua những sinh hoạt trên thế giớiuy tín của Đức Đạt Lai Lạt Ma, mọi người thấy rằng họ giữ được nề nếp và sự đoàn kết thuần nhất làm rạng rỡ nền văn hóa Phật giáo hòa lẫn tín ngưỡng du mục, mặc dù họ mất nước.

Họ có một tổ chức khoa học và giáo dục tu viện khá nghiêm minh, vì thế tôn ti trật tự đã giúp họ tồn tại trước vũ lực.

Trên vùng đất Hoa Thịnh Đốn, số lượng người Tạng và các sư Tạng rất ít, cũng như Lào, Thái, Nhật, Ấn… tuy chùa không nhiều, nhưng cái nào xứng tầm vóc cái đó.

Tây Tạng có một hệ thống tu việngiáo dục thuần nhất. Nhờ sự thuần nhất như thế, cộng đồng Tây Tạng họ tổ chức hàng năm các cuộc cầu nguyện hòa bình và truyền quán đỉnh mang tầm quốc tế ở các quốc gia khác nhau rất thành công do tính đoàn kết nhất quán của họ, họ chỉ biết Đức Đạt Lai Lạt Ma là đấng duy nhất đáng tôn sùng.

Qua đại lễ Kalachakra của Cộng đồng Phật giáo Tây Tạng, liệu Phật giáo Việt Nam có rút tỉa được bài học nào từ sự đoàn kết và tính trong sáng của các Tăng sĩ Tây Tạng như thế?

 

blank

Đức Đạt Lai Lạt Ma củng chư tăng làm lễ cầu nguyện (Ảnh: dalailama.com)

blank

Mạn Đà La (Ảnh: Dalailama.com)

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 918)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1239)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 707)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 678)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 751)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 763)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 744)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 729)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 885)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 770)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 929)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 932)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 854)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 865)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 807)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 954)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 887)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 830)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 918)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 839)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 792)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 893)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 821)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1076)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 855)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 941)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1087)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1563)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1098)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1168)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1045)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 912)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 861)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 892)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 746)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1422)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1296)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1259)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1207)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1326)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1257)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1402)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1280)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1141)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1200)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1249)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1232)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1356)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1253)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant