Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tương lai chùa Việt ở Mỹ

26 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 11763)
Tương lai chùa Việt ở Mỹ

TƯƠNG LAI CHÙA VIỆT Ở MỸ

Minh Mẫn

blankNhư các chùa của Tàu có mặt tại Mỹ trước đây, rất sớm, khi phong trào hồ hởi có thể lên đến vài ngàn ngôi mọc trên các tiểu bang Mỹ, rồi lần lượt rơi rụng chỉ còn vài chục. Duy nhất ngôi chùa Tây Lai Phật Quang Sơn của Hòa thượng Tinh Vân ở Glenmark Dr. CA sừng sững tọa lạc trên đồi cao là có tầm vóc và vị thế tồn tại lâu dài.

Hiện nay chưa có thống kê đầy đủ về chùa, am, nói đúngchính xác hơn là nơi thờ tự của các tu sĩ Phật giáo Việt Nam tại Mỹ; bởi vì nếu gọi là chùa như quen gọi ở quê nhà, thì nơi đây phần lớn chưa có một tầm vóc, kiểu dáng của những ngôi chùa mang màu sắc Á Đông, đó chỉ là những ngôi nhà dân, họ mua lại để thờ và ở, quy tụ một ít tín đồ đến lễ bái. Những vị Tăng ở lâu năm, có tín đồ đông, mua được đất hoặc nhà lân cận để nới rộng khuôn viên, có chỗ đậu xe hơi vào ngày lễ lớn, từ đó tầm vóc ngôi chùa mới hình thành. Cali, Los, Houston, San jose, Sacramento, Virginia, Washington. DC… đều có chùa. Mỗi bang có luật riêng, trong đó nơi thờ tự tôn giáo đòi hỏi có parking như Washington DC, yêu cầu có từ 5 mẫu, nhiều cây xanh, và bảo đảm vệ sinh, an toàn cho người tới lui, thậm chí không được làm nhà ăn, nhà bếp, nhà ở chung nơi thờ phượng. Ở Cali có vài chùa tạo được khuôn viên rộng thoáng, chư Tăng ở những ngôi chùa như thế cũng đã lâu dài. Một số nơi thờ phượng có ít tín đồ, không thể trả tiền cho ngân hàng, đều bị trưng thu là chuyện thường ở Mỹ.

Sáng 23/7 đến thăm chùa H. N của thầy P. T, trong lúc vừa trò chuyện, vừa làm việc, vì chùa đang xây dựng, thầy cho biết rất nhiều về sự rạn nứt trong cộng đồng tu sĩ. Tuy lượng số tu sĩ ở đây không bao nhiêu, nhưng có quá nhiều giáo hội, ngay cả cái gọi là Giáo hội PGVNTN, cũng chia làm nhiều mảnh. Vì thế, thầy dùng từ châm biếm nói đến hai chữ Giáo hội: “Cáo Hội”. Thầy cho biết nhân cách của những vị nổi tiếng cũng quá nhiều tai tiếng. Có vị góp 700 ngàn USD để xin được chức phó Thủ Tướng của Nguyễn Hữu Chánh, khi tiền không còn để trả ngân hàng, dĩ nhiên chùa cũng theo mây khói, vào nhà băng. HT C.T chùa L. H tại Garden Grove, một thành phố phía Bắc quận Cam, tiểu bang Cali, (nơi đây dân số Việt Nam độ 36 ngàn người, chiếm khoảng 22% dân số thành phố) thuộc Giáo Hội Phật Giáo Liên Châu, cho biết, nhân lễ Phật Đản 2555, khi đề cập đến tình hình biển Đông, một tu sĩ nói: “Thà nô lệ cho Tàu cho Nga còn hơn cho Mỹ…” nghĩa là thầy ngao ngán tinh thần chính trị của Tăng sĩ ngày nay tại hải ngoại. Một Pháp sư trưởng lão của một hệ phái tạo dựng nhiều Tịnh xá, không có người trông nom, không có tiền tháng cho điện nước, nợ nhà băng, rồi cũng của Thiên trả Địa.

Hầu hết chùa lớn chùa nhỏ chỉ có từ một đến hai vị cư ngụ. Nếu tính kinh tế, phải bỏ ra hàng trăm ngàn, có khi cả triệu Mỹ kim từ túi tín đồ để xây dựng cơ sở như thế, thuế má, chi phí mọi thứ có khi lên cả ngàn USD hàng tháng, lúc nào đó không trả nổi sẽ mất trắng cơ sở; cho dù thanh toán sòng phẳng hàng tháng thì quả là quá phí phạm chỉ để cho một hai vị trú ngụ. Quần chúng cuối tuần mới đến chùa một lần, có nơi cũng chẳng ai vãng lai nếu nơi đó có nhiều tai tiếng và bị chụp mũ. Do sợ chụp mũ mà có vị phải chống Cộng hăng tiết để minh chứng mình không là Cộng sản. Chống cộng trở thành cái vỏ bọc thời trang để có thu nhập. Thật ra quý thầy không ai muốn dây dưa vào chính trị, mục đích chính là có thu nhập dồi dào.

Một số vị du học từ Ấn Độ, bay qua Mỹ rồi ở luôn, một số từ Việt Nam đi du lịch, thăm viếng… cũng không chịu về lại. Họ tá túc tạm thời ngôi chùa quen, thời gian ngắn tung cánh chim tìm về tổ mới, có một ít tín đồ hỗ trợ mua nhà làm chùa. Khi đã có cơ sở, dĩ nhiên phải vay tiền ngân hàng để mua, họ vất vả để kiếm tiền thanh toán mọi chi phí nợ nần, không có thì giờ để học và tìm hiểu văn hóa sở tại. Một số có trình độ tại Việt Nam, qua Mỹ họ tiếp tục học hành để có bằng cấp, có kiến thức góp phần hoằng pháp cho tuổi trẻ tại Mỹ thì chưa tới vài vị. Phần lớn không ai có chí học hỏi, qua Mỹ như là điều kiện để an phận và hưởng thụ. Tín vụ ma chay như một sở trường, họ đáp ứng cho thế hệ lớn tuổi. Thế hệ này qua thời gian dần dà rơi rụng trong vài mươi năm nữa. Tiếp đến thế hệ sanh từ Việt Nam, lớn lên từ Mỹ, được đào tạo văn hóa Mỹ, còn lưu lại một ít tín ngưỡng của cha mẹ ông bà, họ đến chùa như thói quen đề làm vui lòng người lớn; việc nghi lễ đối với thế hệ này không cần thiết, tìm hiểu giáo lý cũng không là một nhu cầu. Nếu có, họ cần nghe chư Tăng giảng dạy theo mô thức khoa học hơn là đức tin. Đến thế hệ thứ ba sanh tại Mỹ, lớn lên tại Mỹ, được giáo dục tại Mỹ, trở thành Mỹ rặc, họ chỉ khác màu da; Họ không biết tiếng Việt, chính vì thế họ cảm thấy lạt lẽo khi đến chùa mà chỉ nghe tiếng nói thuần Việt của các sư. Trình độ, ngôn ngữ của các sư không thích hợp với thế hệ trẻ như thế. Trong khi đó, chưa có một chú tiểu nào xuất gia tại Mỹ, có nghĩa là lớp kế thừa thuần Mỹ chưa có dấu hiệu xuất hiện, tre sẽ già mà măng chưa mọc. Chư Tăng được bảo lãnh qua cũng tiếp tục công việc ma chay đám cúng chứ không có khả năng ngoại ngữ để truyền đạt giáo lý trên đất nước Âu Mỹ. Sở dĩ Đức Đạt Lai Lạt MaThiền sư Nhất Hạnh thành công là vì truyền đạt giáo lý bằng ngôn ngữ sở tại.

Với số lượng hàng ngàn ngôi chùa trên khắp nước Mỹ bao nhiêu tốn kém chỉ để phục vụ lớp già và sắp già, khi thế hệ này không còn thì chùa tồn tại như một chứng tích lỗi thời? Chưa nói đến số người lớn tuổi không còn tự phục vụ, tự lái xe đến chùa, con cái bận công ăn việc làm bù đầu, mức thu nhập của chùa cũng vơi dần, ngoài việc lưu hủ cốt và thờ vong; Bấy giờ chùa chỉ là nơi ký gủi người quá cố, phục vụ cho kẻ chết chứ không còn là cơ sở hoằng truyền chánh pháp. Trong khi đó, tại Việt Nam, hệ phái Tin Lành truyền bá ồ ạt, chỉ cần một đêm tới sáng là cả một vùng theo Tin Lành, nhất là vùng cao và thôn quê, họ không cần xây dựng nhà thờ, nhà nguyện; hội Thánh là trong tâm mỗi tín đồ, họ tụ tập luân phiên mỗi nhà tín hữu để cầu nguyệnphụng sự. Thay vì móc túi tín đồ xây dựng cơ sở thờ tự, họ chu cấp cho tín hữu cuộc sống. Họ nhiệt tâm trong việc ma chay mà không hề nêu giá làm tiền khi tang gia bối rối. Tại sao Tin Lành thành công trong việc truyền bá tín ngưỡng? Họ không câu nệ hình thức, không cơ sở, không chức sắc, không hưởng thụ và luôn có đức hy sinh, chịu khó. Họ không cần xin xăm bói quẻ sử dụng vàng mã để làm phương tiện hướng dẫn quần chúng có khi những phương tiện đó làm mê hoặc quần chúng như một số chùa. Ngược lại, chùa càng phát triển càng làm mất niềm tin quần chúng vì nhân cách của chư Tăng. Tại hải ngoại, có những tín đồ ngoan đạo, cũng phải dán vào cửa văn phòng làm việc của mình tấm hình của vị phạm giới với dòng chữ MA TĂNG, có những người quá bất mãn, họ lẳng lặng đầu thú với ngoại giáo như một lối thoát của niềm tin và sự thất vọng. Với số lượng cơ sở vật chất của Phật giáo Việt Nam tại xứ người, không phục vụ cho xã hội âu Mỹ về Đạo lý trí tuệ mà chỉ là chứng tích tỵ nạn và nơi an dưỡng hưởng thụ cho những ai không có chí cầu tiến, dĩ nhiên, nhàn cư vi bất thiện, từ đó tệ nạn phát sanh… và, sư Việt sống với cộng đồng người Việt như người Hoa ở Chợ Lớn, Việt Nam cũng vậy, mỗi ngày mỗi thu hẹp sinh hoạt khi những thế hệ kế tiếp thuần là Mỹ hóa. Các chùa Tàu ở Mỹ hậu bán thế kỷ 20 đến thập niên đầu kỷ nguyên 21 bị thu hẹp thế nào thì chùa Việt Nam rồi đây cũng cùng chung số phận. Hiện nay, cộng đồng cư dân Việt Nam, Triều Tiên, Tàu là một trong số gốc châu Á quy tụ nhiều tại Cali, Texas, San Jose, được xem là Sài gòn nhỏ. Các sư Việt chưa có lối thoát cho tương lai, cứ nghĩ nơi nào có người Việt là chùa có thể tồn tại. Nếu chiết tính kỷ, 36 ngàn người Việt hiện nay ở Cali, chia đều cho Tin Lành, Vatican, Phật giáo, chưa nói đến các giáo phái khác, thì tín đồ đạo Phật cũng chỉ 12 ngàn. Trong số 12 ngàn chia làm ba, một là tuổi trẻ, hai là tuổi trung niên và ba là tuổi già thì tuổi già chỉ còn bốn ngàn người cộng thêm phân nửa tuổi trung niên có tâm đạo cũng chỉ được sáu ngàn người đến chùa. Tuổi trẻ ở Mỹ thích đi chùa là chuyện hiếm hoi. Số bốn ngàn cho tuổi già, một ít không tự lái xe đi chùa được, phải nhờ con cháu. Suốt tuần cày mệt mỏi, con cháu cần nghỉ ngơi, làm vệ sinh nhà cửa và đi chợ mua thực phẩm cho suốt một tuần. Như thế số người chia đều cho hàng trăm ngôi chùa không phải là lớn, tiền của vật chất đổ vào việc xây dựng cơ sở đồ sộ như thế để làm gì khi mà tâm linh, sự tu tập và niềm khát vọng về giáo lý của quần chúng bị bỏ trống; chính vì quần chúngchư Tăng không được trang bị nội lực mà chỉ chạy theo nhu cầu vật chất, liệu Phật giáo có bị biến dạng thành một loại doanh nghiệp mới? Nếu chư Tăng không đủ khả năng trang bị cho mình một kiến thức thời đại để hội nhập xã hội văn minh, tự mình đào thải mình, an phận với ngôi chùa được thu nhập lợi tức từ việc thờ linh, lưu cốt, xã hội âu Mỹ sẽ hiểu Phật giáo là gì, chưa nói đến quần chúng Mỹ đang có một tôn giáo truyền thống, họ sẽ xem thường các sư và hình ảnh đức Phật xa lạ. Giới trí thức Âu Mỹ hiểu về đạo Phật qua tư tưởng triết họcthiền học, họ cũng không thể đến với chùa và các sư Việt Nam để lễ lạy cúng kiến.

Tổ chức Gia Đình Phật Tử, tuy là một đoàn thể trẻ của con em người Việt, nhưng chúng cũng không mấy hứng thú với sự diễn dịch giáo lý mang tính huyền thoại và giáo án có từ 60 năm qua không được cập nhật, làm sao hấp dẫn các em bằng những thú vui cám dỗ của thời đại @? Ngày nay, cuộc sống xây dựng trên vật chất, nhưng vật chất không giúp xã hội hạnh phúc thật sự, vì thế tội phạm phát sanh. Đạo Phật xuất hiện mục đích giúp con người sống có hạnh phúc chứ không thể tạo thêm sự bất mãn thất vọng cho xã hội. Nếu chư Tăng chưa đủ khả năng chuyển hóa tâm linh cho quần chúng, ít ra cũng phải góp phần an ủi cho cộng đồng người Việt có một chỗ nương tựa tinh thần. Chùa lớn đất rộng tại sao chúng ta không lập nhà dưỡng lão cho các cụ, vừa gần chùa nghe kinh, vừa có tình người và con cháu viếng thăm tiện hơn đưa vào nhà dưỡng lão? Các cụ sẽ không còn cảm thấy cô đơn lạc lõng giữa bốn vách tường và người xa lạ không cùng ngôn ngữ. Mở lớp dạy Việt ngữ, tổ chức các show bảo tồn văn hóa dân tộc và nhiều việc lợi ích cho cộng đồng hơn là an hưởng một cách thụ động.

Chư Tăng sống có mục đích công ích thì quần chúng sẽ không xa rời đạo Phật; chư Tăngquần chúng đều hướng vào tâm linhcông ích xã hội thì tình thương sẽ phát triển, lòng đố kỵ chống báng nhau, chụp mũ nhau sẽ không còn; Phật giáo Việt Nam tại xứ người sẽ có bộ mặt tươi nhuận hơn, đi vào lòng xã hội dễ hơn và sự tồn tại của chùa Việt Nam mới có ý nghĩa hơn.

Chưa phải muộn để chư Tăng Việt Nam và các ngôi chùa Việt Nam trên đất Mỹ dọn cho mình con đường hội nhập và tồn tại. Các vị tiền nhiệm như cố Hòa thượng Thiên Ân, Thiền sư Nhất Hạnh đã mở đường, chúng ta chỉ tiếp nối và khai phóng cho quang đảng, đừng để bị bít lối mà mang tội với chư Phật chư Tổ.

Có lẽ quần chúng Phật tử Việt kiều cũng chỉ mong ước có thế thôi, chư Tăng sẽ không còn nhìn nhau bằng sự ngờ vực, hố ngăn cách tự nó được lấp kín. Hy vọng chùa Việt sẽ là cơ sở tín ngưỡng tâm linhcông ích xã hội nhiều ý nghĩa dưới mắt người dân Mỹ hiện nay.

MINH MẪN
23/7/2011

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1950)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 2064)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2254)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2520)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2550)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 2085)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2537)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1874)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1969)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2254)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2780)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1692)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1609)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1799)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1631)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 2207)
Nếu một người có nghị lực, tâm trí, trong sáng trong suy nghĩ, lời nóiviệc làm một cách cẩn trọngcân nhắc, kiềm chế các giác quan của mình, kiếm sống theo Luật (Dhamma) và không vô tâm, thì danh vọng và tài lộc của người có tâm đó đều đặn tăng lên.
(Xem: 2364)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
(Xem: 2082)
Hạnh “bố thí” là một trong sáu hạnh của Bồ-tát làm phương tiện đưa đạo vào đời, đem lại niềm vui và xoa dịu nỗi đau của chúng sanh.
(Xem: 1862)
Từ nơi cao rộng mới thấy bao quát toàn cảnh bên dưới. Nào là núi, nào là rừng. Núi xa thì màu nhạt đi, núi gần thì sậm màu đất đá. Rừng thưa thì thấy cả những đường mòn quanh co xuyên qua các thảm lá mục và những tảng đá phong rêu; rừng sâu thì chỉ xanh một màu lá.
(Xem: 1788)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1970)
Người xưa thường nói: “Chúng ta chỉ có thể kiểm soát được hành động, nhưng không thể kiểm soát được kết quả” Xin Hãy Buông Gánh Nặng Xuống.
(Xem: 1705)
Dù những vật hữu tình hay vô tình đều có cội nguồn hình thành, lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
(Xem: 2690)
Khi bàn về cái tôi, người ta thường nói hóm hỉnh rằng: trong cuộc sống, cái tôi mà thệm dấu nặng thì thành TỘI; cái tôi huyền thì thành TỒI; và cái tôi sắc thì thành.. TỐI.
(Xem: 1851)
Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác.
(Xem: 2185)
Tôi chưa từng chứng kiến sự ra đi của bất cứ ai. Trước khi mẹ tôi trở nên quá yếu, tôi chưa từng thấy ai bệnh nặng cả.
(Xem: 2147)
xuất gia hay tại gia, giàu hay nghèo, nam hay nữ, trẻ hay già cũng đều phải biết điều tiết, chế ngự tâm mình.
(Xem: 2498)
Có người nói tu không cần học Phật Pháp cũng được, chỉ cần học một pháp môn nào đó rồi chuyên tu pháp môn đó thì kết quả còn tốt hơn học nhiều pháp môn mà không chuyên tu.
(Xem: 1806)
Phật tử, chúng ta phải hằng ngày tự thân tu tập, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để tự cải tạo tâm mình theo hướng chân, thiện, mỹ.
(Xem: 1988)
Đừng đặt nặng vấn đề sống, chết. Đừng nghĩ đến điều đó. Chỉ cần thanh lọc tâm trí của bạn, thì điều đó sẽ an bài tất cả mọi thứ.
(Xem: 1865)
Trụ là ở chùa; Trì là gìn giữ trông nom chùa. Nghĩa là đối với sự uỷ thác của thập phương tín thí, nhân dân sở tại phải hết tâm, hết sức.
(Xem: 2040)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 2611)
Quốc gia nào cũng vậy, bên cạnh những cái đẹp vẫn có cái xấu. Nếu cái tốt nhiều, cái xấu ít thì không đáng lo ngại.
(Xem: 3671)
Trong cuộc sống thường ngày có nhiều người rất dễ rơi vào tình trạng đau khổ, bởi vì có quá nhiều áp lực, nhiều gánh nặng, nhiều ưu tư, nỗi buồn trong lòng.
(Xem: 2287)
Những thành bại, được mất, hơn thua, tranh đoạt, tham vọng và thù hận v.v… sẽ chẳng có giá trị gì nếu như gần kề với cái chết.
(Xem: 2289)
Theo Thế Tôn, người tu mà không có lòng tin thiện pháp là một biểu hiện của bần cùng.
(Xem: 1665)
Cây phong đầu ngõ đã dần dần chuyển sắc lá. Lá vàng chen lá xanh. Lác đác vài chiếc lá phong chỉ mới úa vàng đã rơi quanh gốc, không theo tiến trình sinh trụ hoại diệt của thiên nhiên.
(Xem: 1978)
Các vị thiền sư tu tập theo pháp Phật khẳng định rằng tuy tâm khônghình dáng nhưng chúng ta có thể phân biệt được lúc nào tâm khỏe mạnh và lúc nào tâm bệnh hoạn.
(Xem: 2315)
Hôm trước, tôi có chia sẻ một phương cách để đối trị vọng tưởng, tâm chạy đi lang thang chỗ này chỗ kia bằng cách...
(Xem: 2314)
Khi có một điều không may mắn, bất như ý xảy đến thì đa phần chúng ta đều nghĩ và thậm chí đổ lỗi là do nghiệp.
(Xem: 2153)
Buông bỏ tất cả để tu hành vốn không bị xem là ích kỷ, thậm chí đó là cao thượng nhưng rũ bỏ trách nhiệm trước một thực trạng gia đình ngổn ngang là không thể chấp nhận, đáng bị phê phán.
(Xem: 3115)
Pháp luân nghĩa là bánh xe Phật pháp. Dhamma trong tiếng Pali (Nam Phạn) có nghĩa là Pháp Bảo, lời dạy từ Đức Phật.
(Xem: 2130)
Nghiệp nói cho đủ là nghiệp quả báo ứng, tức đã gây nhân thì có kết quả tương xứng, và quả đến sớm hay muộn khi hội đủ nhân duyên, hội đủ điều kiện.
(Xem: 2529)
Đây là một lời dạy phù hợp với cái nhìn sâu sắc cốt lõi của Phật giáo: rằng chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta có một cái tôi.
(Xem: 2049)
Một nhóm sinh viên đến chùa để tìm hiểu về đạo Phật và kiến trúc chùa nhằm phục vụ cho chương trình học. Có một em tự giới thiệu mình là tín đồ của đạo Thiên Chúa.
(Xem: 1980)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”
(Xem: 2186)
Đời người như một giấc chiêm bao, sinh-lão-bệnh-tử là điều hiển nhiên không ai tránh khỏi, cuối con đường bóng xế ngả chiều ta rời bỏ nơi đây với bàn tay không.
(Xem: 2479)
Đức Phật không phải là một vị Thượng đế, vậy thì tại sao giáo huấn của Ngài là một tôn giáo và tại sao Phật tử tôn thờ Ngài như Thượng đế?
(Xem: 2053)
Xưa nay, nhân loại vẫn mơ ước một thứ ngôn ngữ chung, một thứ ngôn ngữ trực tiếp phản chiếu và thông diễn mọi sắc thái của thực tại sống động
(Xem: 2446)
Giáo pháp tứ y trong đạo Phậtgiáo pháp nói về bốn phương pháp thực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ giải thoát.
(Xem: 2409)
Giáo pháp của Đức Phật tuyên thuyết là một sự trải nghiệm sinh động mang tính ứng dụng rất thiết thực chứ không phải là những giáo thuyết
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant