Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nghĩ đến công ơn tương quan

08 Tháng Tám 201100:00(Xem: 11707)
Nghĩ đến công ơn tương quan


blank
Ta hiện hữuhiện hữu với cha mẹ, với thầy, với bạn. Ta hiện hữuhiện hữu với con người, với muôn loài và với thiên nhiên. Không có cha mẹ thì sẽ không bao giờ có ta. Nên, ta phải luôn nghĩ đến sự hiện hữu của cha và mẹ. Phải nhìn sâu vào sự sống của ta để luôn nghĩ đến công ơn của cha mẹ. Khi ta nhìn sâu vào để thấy công ơn của cha mẹ thì ta sẽ toát ra được chất liệu hiếu kính.

Nếu chúng ta không có chánh niệm tỉnh giác để nhìn sâu và thấy rõ được những công ơn to lớn đó, thì ta sẽ không có được sự hiếu kính, hoặc nếu có, thì cũng không phải là sự hiếu kính đích thực. Ta chỉ có sự hiếu kính đích thực, khi nào có chánh niệm tỉnh giác.

Nhìn bàn tay, nhìn trái tim, nhìn tâm hồn của ta và thấy được trong tất cả các yếu tố đó đều có mặt của cha mẹ ta. Và khi ta thấy được rằng, trong sự hiện hữu của mình luôn luôn có cha mẹ, thì đó là sự hiện hữu có gốc rễ và mình sẽ không cảm thấy bị lạc loài. Đây là điểm hết sức quan trọng, khi thế kỷ 21 này, người ta có khuynh hướng làm ra những con người nhân tạo.

Và khi những con người nhân tạo (nhân bản vô tính hay bằng máy) bắt đầu xuất hiện trên trái đất thì chúng ta sẽ có một thảm họa và thế giới con người sẽ là một thảm họa, bởi vì những con người được “sinh ra” bởi thai nhân tạo sẽ không biết được cha mẹ nó ở đâu, nó không có gốc rễ. Khi đã không có gốc rễ, nó sẽ hành động theo thú tính hoàn toàn. Nó sẽ hành động theo cảm giác bơ vơ, lạc lõng như một loài không có gốc rễ và đó là cái nguy hiểm cho thế giới con người. Các nhà đạo đức, các học giả trên thế giới vẫn đang còn tranh cãi nhiều về vấn đề này.

Người ta giả tưởng rằng, khi mà thế giới con người ra đời bằng bào thai nhân tạo, người ta vẫn chưa tưởng tượng ra được thế giới con người lúc đó sẽ như thế nào, nhưng chắc chắn rằng, nó sẽ thấp kém hơn, sẽ bi đát hơn thế giới con người chúng ta đang có mặt. Bởi vì sao? Bởi vì trong sự tương quan, khi chúng ta nói một em bé mà em bé đó không nghe, thì chúng ta có thể nói với cha mẹ nó, với cô dì chú bác, hoặc có thể với ông bà nội, ông bà ngoại của nó...

Nhưng, nếu một đứa bé được sinh ra từ bào thai nhân tạo, khi nó hư hỏng mình sẽ nói với ai? Một con ngườichánh niệm tỉnh giác, mình sẽ rất vinh dự khi thấy rằng, mình có mặt là bởi vì cha mẹ mình đã có mặt, và cha mẹ đã luôn luôn có mặt ở trong mình. Dù đang ở Sài Gòn hay Hà Nội, ở Mỹ hay Pháp, chỉ cần nhìn bàn tay của mình trong chánh niệm, mình sẽ tiếp xúc được với cội rễ của mình và từ đó cảm giác cô đơn của những người con tha hương sẽ không có cơ hội trỗi dậy.

Chúng ta đi những bước đi là không những đi cho chúng ta, hay đi cho cá nhân ta, mà là đi cho cha mẹ mình. Cha mẹ mình có an toàn hay không, là tùy thuộc vào bước chân an toàn của chính mình. Mình cười, và thở cũng là cười và thở cho cha mẹ mình. Ngay cả mình học, mình đỗ đạt, cũng chính là học và đỗ đạt cho cha mẹ mình.

Kỳ thi đại học vừa qua, có những em bị rớt không vào đại học được, trong gia đình cha mẹ buồn thiu như là nhà có đám vậy, và dọn cơm ra không ai ăn được cả. Rõ ràngchúng ta đâu phải học cho cá nhân mình, mà là học cho cha mẹ, cho anh em mình. Người đệ tử Phật nhìn sâu vào sự hiện hữu của mình, sẽ nhận ra rằng, mình luôn luôn hiện hữu với cha mẹ, với anh chị em, với bạn bè mình. Khi nghe bạn mình thi rớt, chúng ta cũng ăn không được. Rõ ràng, mình đâu chỉ học cho riêng mình, mà còn học cho bạn mình.

Ta hiện hữuhiện hữu với thầy của mình, trong mình có thầy. Nếu mình có những hành xử sơ suất, thì không những mình bị thiệt hại, đau khổ mà thầy mình cũng buồn, cũng đau khổ. Có một vị thầy ở Đà Nẵng ra Huế thăm tôi, thăm quý thầy ở Từ Hiếu và sau đó bày tỏ lòng biết ơn đối với hội đồng giáo thọ tại tổ đình Từ Hiếu, đã chăm sóc người học trò của vị đó một cách chu đáo.

Sau thời gian ở đây, người học trò của vị thầy đó đã trở về lại trú xứ và đã hướng dẫn cho Phật tử tu tập rất có hiệu quả. Như vậy, mình tu không phải chỉ là tu cho mình, mà còn tu cho thầy mình. Mình học không phải chỉ đem lại vinh quang cho bản thân mình, mà còn đem lại vinh quang cho thầy mình, cho những người đồng cảm với mình. Trong mỗi động tác đều có cha mẹ, có thầy, có bạn của mình.

Nếu động tác của mình sơ suất, xuống hố, thì thầy của mình cũng rơi xuống hố, cha mẹ của mình cũng sẽ rơi xuống hố, và bạn bè mình cũng vậy. Nếu động tác của mình thăng tiến, thì mình thăng tiến, cha mẹ mình thăng tiến, thầy mình cũng thăng tiến và bạn bè mình cũng thăng tiến. Khi có chánh niệm tỉnh giác, mình thấy được như vậy, thì trong từng giây phút mình đi đâu, ở đâu cũng có cha mẹ, có thầy, có bạn bè ở trong mình.

Nếu mình không có chánh niệm tỉnh giác, thì mình sẽ không thể biết ơn cha mẹ, biết ơn thầy, bạn một cách sâu sắc được. Nhìn kỹ, mình sẽ thấy trong mình là hiện hữu của tất cả hết thảy mọi người.

Chúng ta ăn cơm chánh niệm, chúng ta phải thấy những thực phẩmchúng ta khất thựctừ tâm hồn của những người dâng cúng, mỗi người, mỗi kiến thức để nấu và chế tác ra món ăn, rồi đem món ăn đó về quần tụ ở nơi một đạo tràng tu học, và đặt những thực phẩm vào những vị trí đã được quy định. Và chúng ta cùng đi khất thực, chúng ta đã tiếp xúc được rất nhiều món ăn ở trong một bữa ăn, và rất nhiều món ăn trong một bát cơm.

Bát cơm mình ăn, đâu phải chỉ là của mình, mà còn có bác nông dân ở trong, có chị bán cải, có bác thợ rèn, v.v... Nếu không có bác thợ rèn, mình không thể nào gọt và cắt cho đàng hoàng được. Có người làm đậu khuôn, có chị làm chả, có anh làm nấm, có người xay gạo, người giã gạo, người nấu cơm, có ông giám đốc và nhân viên nhà máy đèn, nhà máy nước, có những nhà sản xuất chén bát, có giám đốc và nhân viên ngân hàng, v.v...

Cho nên, chúng ta phải thấy bát cơm của ta ăn là một bát cơm được tạo ra từ một trường đại học bách khoa thực tiễn của đời sống. Nên, nhìn sâu vào một bát cơm bằng tuệ giác, ta sẽ cảm thấy rất hạnh phúc và rất sung sướng. Ăn một miếng cơm mà có mặt của nhiều người như vậy, nếu mình ăn với một lòng tham, ăn mà lật đật, thì làm sao xứng đáng! Thường thường mình hay phụ bạc nhau một cách rất là ghê gớm, nếu khôngchánh niệm tỉnh giác trong khi ăn.

Chúng ta thử nghiệm mà xem! Mẹ ở nhà lặt rau muống, nấu cơm, nấu canh... rồi dọn lên sẵn trên bàn cho mình; vợ hay chị mình nấu cơm, nấu canh, làm thành những thực phẩm của một bữa ăn, rồi dọn sẵn lên bàn ăn cho mình bằng tất cả tấm lòng, nhưng khi ta đi làm việc về đến nhà, ta ăn, rồi chê mặn, chê lạt, hoặc chỉ lùa vài ba miếng cho xong chuyện, rồi lại xem tivi, xem đá bóng. Ta sống và ăn như vậy, thì đời sống của ta quả thật là phụ bạc và vô vị!

Tại sao mẹ, vợ, chị mình đã thương và lo cho mình những thực phẩm để ăn như vậy, mà mình không ngồi vào bàn để mà ăn cho đàng hoàng và sâu sắc, để mà thấy tâm hồn của mẹ mình, của vợ và của chị ở trong tô canh, ở trong bát cơm? Con người ăn mà không biết giá trị của cái ăn và những gì đã tạo nên cho cái ăn ấy, đó là con người gì? Khi con người đã coi thường ân nghĩa của chính cha mẹ mình, của những người thương yêu mình, thì người đó sẽ là người như thế nào ở trong cõi người?

Triết gia Tây phương E.Fromm nói thế kỷ 20 là thế kỷ mà con người đã chết. Đã chết là vậy đó! Chết từ trong tâm hồn của mình, chết từ trong bữa ăn của gia đình mình, chết từ trong dòng họ của mình, và chết từ trong cuộc sống của mình.

Thực tập chánh niệm tỉnh giáclấy lại chủ quyền của con người trong đời sống hàng ngày của mình, để trong đời sống hàng ngày của con người, khi nào cũng có mặt của cha mẹ, của thầy, của bạn bè, những người thương yêu của mình, đồng loại của mình, và đâu phải chỉ là đồng loại mà là cả muôn loài. Ta không thấy thực vật, nó luôn có mặt trong bữa ăn của mình đó sao!

Khi một thực vật được hoàn thành để trở thành thức ăn, thì không biết bao nhiêu loài chúng sinh đã chết trong thực vật đó, để cho mình ăn. Bao nhiêu sâu trùng đã phải hy sinh thân mạng của chúng để mình có được rau quả tươi ngon!

Cho nên, nếu ăn một miếng cơm mà có chánh niệm tỉnh giác, thì mỗi miếng cơm là một niềm hạnh phúc lớn, chứ không phải đến lúc ăn no mới hạnh phúc. Khi đưa muỗng cơm chạm vào trong miệng mình, đó là một hạnh phúc lớn, một cảm giác kỳ lạ trong đời sống của chính mình. Hạnh phúc lớn là ở đó, chứ không phải hạnh phúc là ở nơi miếng thịt, nơi ly bia, ly rượu. Chúng ta có thể ăn ít cũng được, nhưng mà phải ăn cho sâu sắc.

Với chất liệu chánh niệm tỉnh giác này, dù trải qua bao thời đại, người đệ tử Phật không bao giờ là kẻ phản bội. Họ ở trong gia đình, thì họ xây dựng gia đình tốt đẹp; họ ra giữa làng xã, thì họ xây dựng làng xã tốt đẹp; họ ở trong quốc gia nào, thì họ sẽ xây dựng quốc gia đó trở thành tốt đẹp. Vì một vị đệ tử Phật có chánh niệm tỉnh giác, vị ấy biết rất rõ rằng, đối với đời sống, ta nên làm gì và không nên làm gì. Nên, vị ấy sống ở đâu thì họ làm đẹp ở đó và có sự hòa bình ở đó. Điều đó là điều mà lịch sử loài người đã xác chứng.

Những giáo hữu Kitô nói rằng: “Thà mất nước không thà mất Chúa”. Nghĩa là nước sẵn sàng để cho mất, nhưng mà Chúa sẽ không để cho mất. Còn trong đạo Phật, người Phật tử nói: “Thà mất nước không thà mất hạnh ”. Bởi vì hạnh là nếp sống, là văn hóa, đạo đức, là chánh niệm tỉnh giác, là tuệ quán minh triệt, là niềm tin sáng trong, thuần tịnh. Mình mất nước mà còn có chánh niệm tỉnh giác, còn giữ được nếp sống, còn có niềm tin trong sáng và thuần tịnh, thì mình còn có cơ hội phục hồi lại đất nước. Nếu nước chưa mất mà hạnh đã mất, chánh niệm tỉnh giác không còn, niềm tin bị phá sản, thì coi như nước cũng đã mất.

Hạnh của người đệ tử Phật là gì? Là hành, là nếp sống. Mà nếp sống của người đệ tử Phật là nếp sốngchánh niệm tỉnh giác, có quán chiếu minh triệt, có niềm tin sáng trong thuần tịnh. Trong chánh niệm, vừa có giới, tức là niềm tin đạo đức. Trong chánh niệm, vừa có định, tức là sự vững chãi. Và trong chánh niệm, vừa có tuệ, tức là sự quán chiếu sâu sắc, sự hiểu biết minh triệt. Chính những cái đó tạo ra cái hạnh của người đệ tử Phật.

Trong đời sống của một con người, có khi thăng, khi trầm, khi tán, khi tụ, khi buồn, khi vui. Đời sống của một gia đình cũng vậy, khi thăng, khi trầm, khi tán, khi tụ, khi buồn, khi vui. Giàu đó rồi nghèo đó, vinh đó, rồi nhục đó, phú quý đó, rồi cơ hàn đó, đoàn tụ đó rồi phân ly đó. Mình nhìn kỹ, thì gia đình nào cũng có tình trạng như vậy hết, nhưng mà gia đình có chất liệu đệ tử của Phật, thì khi giàu mình cũng có chánh niệm tỉnh giác, khi nghèo mình cũng có chánh niệm tỉnh giác, khi vinh cũng như khi nhục, luôn giữ được chất liệu chánh niệm tỉnh giác. Nếu mình mất chánh niệm tỉnh giác, mất niềm tin trong sáng trong đời sống hàng ngày, thì người đệ tử Phật xem như là mất hạnh, mất nết, mất nếp sống của mình.

Và khi nếp sống của mình đã mất, thì mình không còn có cơ hội gì để gọi là biết ân thầy, bạn, cha mẹ, mọi người. Mà đã không biết ân, thì làm sao bảo vệ? Có biết ân cha mẹ, mình mới bảo vệ thanh danh của cha mẹ mình. Có biết ơn thầy, mình mới bảo vệ danh tiết của thầy, mình mới đi theo cái khí tiết của thầy mình. Có biết ân bạn bè, thì mình mới sống có nghĩa. Có biết ân quê hương xứ sở, thì mình mới bảo vệ quê hương. Có biết ơn con người, thì mình mới chăm sóc, mới trân trọng quyền sống của con người.

Chúng ta thấy ân nghĩa, hiếu kính, quyền sống, cũng đều từ nơi chánh niệm tỉnh giác mà ra cả. Nếu khôngchánh niệm tỉnh giác, thì không có tuệ, và không có tuệ thì đâu có thấy được sự liên hệ giữa mình và người. Giới định tuệ là chất liệu xuyên suốt trong mọi lãnh vực, trong mọi hành xử của người đệ tử Phật mà chánh niệm tỉnh giác cần phải thực tập miên mật để giới định tuệ luôn luôn sống độnghiện tiền.

Đám mây ở trên trời không có liên quan gì đến mình ở dưới đất này hết. Nghĩ như vậy và nói như vậy, tức là không có chánh niệm tỉnh giác. Đám mây ở trên trờivẫn có liên quan chặt chẽ với mình. Giả như đám mây đó bị nhiễm độc, và một trận mưa rơi xuống, thì liệu ở dưới này mình có thảnh thơi được hay không? Nếu đám mây bị vẩn đục, nó đi vào trong không khí, vào trong nước mưa, nó rơi xuống, thì cả thế gian này đều lãnh sẹo hết.

Nếu có dịp, chúng ta đi về biển, ngắm mặt trăng, ngắm sóng biển, chúng ta sẽ thấy được sự liên hệ rất là chặt chẽ của chúng. Khi mặt trăng lên là nước biển lên, và nước biển lên như là nó đùa giỡn với mặt trăng vậy. Nó đẹp đến thế! Với con mắt của phàm tục, con mắt thiếu chánh niệm tỉnh giác, thì mình sẽ thấy mặt trăng và sóng biển không có liên hệvới nhau cả. Khi ta có chánh niệm tỉnh giác, thì ta nhìn cái gì cũng vui, đi đâu mình cũng có bạn cả, mặt trời là bạn mình, đám mây bạc là bạn mình, núi xanh là bạn mình, con đường, đám hoa dại, con còng bò trên bãi cát cũng đều là bạn mình, v.v...

Vậy thì có gì mà ta lại sợ cô đơn! Lẽ đương nhiên chúng ta phải thực tập để có được chất liệu chánh niệm tỉnh giác, có chất liệu của tuệ quán minh triệt trong đời sống hằng ngày, để niềm tin sáng trong của chúng ta có thể khởi sinh từ chất liệu thực tập ấy, khiến chúng ta có thể cảm nhận được rằng: “Sự sống là tất cả ”.

Thích Thái Hòa
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 112)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 137)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 157)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 158)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 185)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 233)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 221)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 232)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 225)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 263)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 250)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 211)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 158)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 187)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 209)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 294)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 306)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 386)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 360)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 341)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 352)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 609)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 578)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 852)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 447)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 681)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 500)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 487)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 388)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 505)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 469)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 654)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 450)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 852)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 574)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 580)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 974)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 683)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 575)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 876)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 547)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 678)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 651)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 628)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 641)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 640)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 535)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 709)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1021)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1199)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant