Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nghĩ đến công ơn tương quan

08 Tháng Tám 201100:00(Xem: 11709)
Nghĩ đến công ơn tương quan


blank
Ta hiện hữuhiện hữu với cha mẹ, với thầy, với bạn. Ta hiện hữuhiện hữu với con người, với muôn loài và với thiên nhiên. Không có cha mẹ thì sẽ không bao giờ có ta. Nên, ta phải luôn nghĩ đến sự hiện hữu của cha và mẹ. Phải nhìn sâu vào sự sống của ta để luôn nghĩ đến công ơn của cha mẹ. Khi ta nhìn sâu vào để thấy công ơn của cha mẹ thì ta sẽ toát ra được chất liệu hiếu kính.

Nếu chúng ta không có chánh niệm tỉnh giác để nhìn sâu và thấy rõ được những công ơn to lớn đó, thì ta sẽ không có được sự hiếu kính, hoặc nếu có, thì cũng không phải là sự hiếu kính đích thực. Ta chỉ có sự hiếu kính đích thực, khi nào có chánh niệm tỉnh giác.

Nhìn bàn tay, nhìn trái tim, nhìn tâm hồn của ta và thấy được trong tất cả các yếu tố đó đều có mặt của cha mẹ ta. Và khi ta thấy được rằng, trong sự hiện hữu của mình luôn luôn có cha mẹ, thì đó là sự hiện hữu có gốc rễ và mình sẽ không cảm thấy bị lạc loài. Đây là điểm hết sức quan trọng, khi thế kỷ 21 này, người ta có khuynh hướng làm ra những con người nhân tạo.

Và khi những con người nhân tạo (nhân bản vô tính hay bằng máy) bắt đầu xuất hiện trên trái đất thì chúng ta sẽ có một thảm họa và thế giới con người sẽ là một thảm họa, bởi vì những con người được “sinh ra” bởi thai nhân tạo sẽ không biết được cha mẹ nó ở đâu, nó không có gốc rễ. Khi đã không có gốc rễ, nó sẽ hành động theo thú tính hoàn toàn. Nó sẽ hành động theo cảm giác bơ vơ, lạc lõng như một loài không có gốc rễ và đó là cái nguy hiểm cho thế giới con người. Các nhà đạo đức, các học giả trên thế giới vẫn đang còn tranh cãi nhiều về vấn đề này.

Người ta giả tưởng rằng, khi mà thế giới con người ra đời bằng bào thai nhân tạo, người ta vẫn chưa tưởng tượng ra được thế giới con người lúc đó sẽ như thế nào, nhưng chắc chắn rằng, nó sẽ thấp kém hơn, sẽ bi đát hơn thế giới con người chúng ta đang có mặt. Bởi vì sao? Bởi vì trong sự tương quan, khi chúng ta nói một em bé mà em bé đó không nghe, thì chúng ta có thể nói với cha mẹ nó, với cô dì chú bác, hoặc có thể với ông bà nội, ông bà ngoại của nó...

Nhưng, nếu một đứa bé được sinh ra từ bào thai nhân tạo, khi nó hư hỏng mình sẽ nói với ai? Một con ngườichánh niệm tỉnh giác, mình sẽ rất vinh dự khi thấy rằng, mình có mặt là bởi vì cha mẹ mình đã có mặt, và cha mẹ đã luôn luôn có mặt ở trong mình. Dù đang ở Sài Gòn hay Hà Nội, ở Mỹ hay Pháp, chỉ cần nhìn bàn tay của mình trong chánh niệm, mình sẽ tiếp xúc được với cội rễ của mình và từ đó cảm giác cô đơn của những người con tha hương sẽ không có cơ hội trỗi dậy.

Chúng ta đi những bước đi là không những đi cho chúng ta, hay đi cho cá nhân ta, mà là đi cho cha mẹ mình. Cha mẹ mình có an toàn hay không, là tùy thuộc vào bước chân an toàn của chính mình. Mình cười, và thở cũng là cười và thở cho cha mẹ mình. Ngay cả mình học, mình đỗ đạt, cũng chính là học và đỗ đạt cho cha mẹ mình.

Kỳ thi đại học vừa qua, có những em bị rớt không vào đại học được, trong gia đình cha mẹ buồn thiu như là nhà có đám vậy, và dọn cơm ra không ai ăn được cả. Rõ ràngchúng ta đâu phải học cho cá nhân mình, mà là học cho cha mẹ, cho anh em mình. Người đệ tử Phật nhìn sâu vào sự hiện hữu của mình, sẽ nhận ra rằng, mình luôn luôn hiện hữu với cha mẹ, với anh chị em, với bạn bè mình. Khi nghe bạn mình thi rớt, chúng ta cũng ăn không được. Rõ ràng, mình đâu chỉ học cho riêng mình, mà còn học cho bạn mình.

Ta hiện hữuhiện hữu với thầy của mình, trong mình có thầy. Nếu mình có những hành xử sơ suất, thì không những mình bị thiệt hại, đau khổ mà thầy mình cũng buồn, cũng đau khổ. Có một vị thầy ở Đà Nẵng ra Huế thăm tôi, thăm quý thầy ở Từ Hiếu và sau đó bày tỏ lòng biết ơn đối với hội đồng giáo thọ tại tổ đình Từ Hiếu, đã chăm sóc người học trò của vị đó một cách chu đáo.

Sau thời gian ở đây, người học trò của vị thầy đó đã trở về lại trú xứ và đã hướng dẫn cho Phật tử tu tập rất có hiệu quả. Như vậy, mình tu không phải chỉ là tu cho mình, mà còn tu cho thầy mình. Mình học không phải chỉ đem lại vinh quang cho bản thân mình, mà còn đem lại vinh quang cho thầy mình, cho những người đồng cảm với mình. Trong mỗi động tác đều có cha mẹ, có thầy, có bạn của mình.

Nếu động tác của mình sơ suất, xuống hố, thì thầy của mình cũng rơi xuống hố, cha mẹ của mình cũng sẽ rơi xuống hố, và bạn bè mình cũng vậy. Nếu động tác của mình thăng tiến, thì mình thăng tiến, cha mẹ mình thăng tiến, thầy mình cũng thăng tiến và bạn bè mình cũng thăng tiến. Khi có chánh niệm tỉnh giác, mình thấy được như vậy, thì trong từng giây phút mình đi đâu, ở đâu cũng có cha mẹ, có thầy, có bạn bè ở trong mình.

Nếu mình không có chánh niệm tỉnh giác, thì mình sẽ không thể biết ơn cha mẹ, biết ơn thầy, bạn một cách sâu sắc được. Nhìn kỹ, mình sẽ thấy trong mình là hiện hữu của tất cả hết thảy mọi người.

Chúng ta ăn cơm chánh niệm, chúng ta phải thấy những thực phẩmchúng ta khất thựctừ tâm hồn của những người dâng cúng, mỗi người, mỗi kiến thức để nấu và chế tác ra món ăn, rồi đem món ăn đó về quần tụ ở nơi một đạo tràng tu học, và đặt những thực phẩm vào những vị trí đã được quy định. Và chúng ta cùng đi khất thực, chúng ta đã tiếp xúc được rất nhiều món ăn ở trong một bữa ăn, và rất nhiều món ăn trong một bát cơm.

Bát cơm mình ăn, đâu phải chỉ là của mình, mà còn có bác nông dân ở trong, có chị bán cải, có bác thợ rèn, v.v... Nếu không có bác thợ rèn, mình không thể nào gọt và cắt cho đàng hoàng được. Có người làm đậu khuôn, có chị làm chả, có anh làm nấm, có người xay gạo, người giã gạo, người nấu cơm, có ông giám đốc và nhân viên nhà máy đèn, nhà máy nước, có những nhà sản xuất chén bát, có giám đốc và nhân viên ngân hàng, v.v...

Cho nên, chúng ta phải thấy bát cơm của ta ăn là một bát cơm được tạo ra từ một trường đại học bách khoa thực tiễn của đời sống. Nên, nhìn sâu vào một bát cơm bằng tuệ giác, ta sẽ cảm thấy rất hạnh phúc và rất sung sướng. Ăn một miếng cơm mà có mặt của nhiều người như vậy, nếu mình ăn với một lòng tham, ăn mà lật đật, thì làm sao xứng đáng! Thường thường mình hay phụ bạc nhau một cách rất là ghê gớm, nếu khôngchánh niệm tỉnh giác trong khi ăn.

Chúng ta thử nghiệm mà xem! Mẹ ở nhà lặt rau muống, nấu cơm, nấu canh... rồi dọn lên sẵn trên bàn cho mình; vợ hay chị mình nấu cơm, nấu canh, làm thành những thực phẩm của một bữa ăn, rồi dọn sẵn lên bàn ăn cho mình bằng tất cả tấm lòng, nhưng khi ta đi làm việc về đến nhà, ta ăn, rồi chê mặn, chê lạt, hoặc chỉ lùa vài ba miếng cho xong chuyện, rồi lại xem tivi, xem đá bóng. Ta sống và ăn như vậy, thì đời sống của ta quả thật là phụ bạc và vô vị!

Tại sao mẹ, vợ, chị mình đã thương và lo cho mình những thực phẩm để ăn như vậy, mà mình không ngồi vào bàn để mà ăn cho đàng hoàng và sâu sắc, để mà thấy tâm hồn của mẹ mình, của vợ và của chị ở trong tô canh, ở trong bát cơm? Con người ăn mà không biết giá trị của cái ăn và những gì đã tạo nên cho cái ăn ấy, đó là con người gì? Khi con người đã coi thường ân nghĩa của chính cha mẹ mình, của những người thương yêu mình, thì người đó sẽ là người như thế nào ở trong cõi người?

Triết gia Tây phương E.Fromm nói thế kỷ 20 là thế kỷ mà con người đã chết. Đã chết là vậy đó! Chết từ trong tâm hồn của mình, chết từ trong bữa ăn của gia đình mình, chết từ trong dòng họ của mình, và chết từ trong cuộc sống của mình.

Thực tập chánh niệm tỉnh giáclấy lại chủ quyền của con người trong đời sống hàng ngày của mình, để trong đời sống hàng ngày của con người, khi nào cũng có mặt của cha mẹ, của thầy, của bạn bè, những người thương yêu của mình, đồng loại của mình, và đâu phải chỉ là đồng loại mà là cả muôn loài. Ta không thấy thực vật, nó luôn có mặt trong bữa ăn của mình đó sao!

Khi một thực vật được hoàn thành để trở thành thức ăn, thì không biết bao nhiêu loài chúng sinh đã chết trong thực vật đó, để cho mình ăn. Bao nhiêu sâu trùng đã phải hy sinh thân mạng của chúng để mình có được rau quả tươi ngon!

Cho nên, nếu ăn một miếng cơm mà có chánh niệm tỉnh giác, thì mỗi miếng cơm là một niềm hạnh phúc lớn, chứ không phải đến lúc ăn no mới hạnh phúc. Khi đưa muỗng cơm chạm vào trong miệng mình, đó là một hạnh phúc lớn, một cảm giác kỳ lạ trong đời sống của chính mình. Hạnh phúc lớn là ở đó, chứ không phải hạnh phúc là ở nơi miếng thịt, nơi ly bia, ly rượu. Chúng ta có thể ăn ít cũng được, nhưng mà phải ăn cho sâu sắc.

Với chất liệu chánh niệm tỉnh giác này, dù trải qua bao thời đại, người đệ tử Phật không bao giờ là kẻ phản bội. Họ ở trong gia đình, thì họ xây dựng gia đình tốt đẹp; họ ra giữa làng xã, thì họ xây dựng làng xã tốt đẹp; họ ở trong quốc gia nào, thì họ sẽ xây dựng quốc gia đó trở thành tốt đẹp. Vì một vị đệ tử Phật có chánh niệm tỉnh giác, vị ấy biết rất rõ rằng, đối với đời sống, ta nên làm gì và không nên làm gì. Nên, vị ấy sống ở đâu thì họ làm đẹp ở đó và có sự hòa bình ở đó. Điều đó là điều mà lịch sử loài người đã xác chứng.

Những giáo hữu Kitô nói rằng: “Thà mất nước không thà mất Chúa”. Nghĩa là nước sẵn sàng để cho mất, nhưng mà Chúa sẽ không để cho mất. Còn trong đạo Phật, người Phật tử nói: “Thà mất nước không thà mất hạnh ”. Bởi vì hạnh là nếp sống, là văn hóa, đạo đức, là chánh niệm tỉnh giác, là tuệ quán minh triệt, là niềm tin sáng trong, thuần tịnh. Mình mất nước mà còn có chánh niệm tỉnh giác, còn giữ được nếp sống, còn có niềm tin trong sáng và thuần tịnh, thì mình còn có cơ hội phục hồi lại đất nước. Nếu nước chưa mất mà hạnh đã mất, chánh niệm tỉnh giác không còn, niềm tin bị phá sản, thì coi như nước cũng đã mất.

Hạnh của người đệ tử Phật là gì? Là hành, là nếp sống. Mà nếp sống của người đệ tử Phật là nếp sốngchánh niệm tỉnh giác, có quán chiếu minh triệt, có niềm tin sáng trong thuần tịnh. Trong chánh niệm, vừa có giới, tức là niềm tin đạo đức. Trong chánh niệm, vừa có định, tức là sự vững chãi. Và trong chánh niệm, vừa có tuệ, tức là sự quán chiếu sâu sắc, sự hiểu biết minh triệt. Chính những cái đó tạo ra cái hạnh của người đệ tử Phật.

Trong đời sống của một con người, có khi thăng, khi trầm, khi tán, khi tụ, khi buồn, khi vui. Đời sống của một gia đình cũng vậy, khi thăng, khi trầm, khi tán, khi tụ, khi buồn, khi vui. Giàu đó rồi nghèo đó, vinh đó, rồi nhục đó, phú quý đó, rồi cơ hàn đó, đoàn tụ đó rồi phân ly đó. Mình nhìn kỹ, thì gia đình nào cũng có tình trạng như vậy hết, nhưng mà gia đình có chất liệu đệ tử của Phật, thì khi giàu mình cũng có chánh niệm tỉnh giác, khi nghèo mình cũng có chánh niệm tỉnh giác, khi vinh cũng như khi nhục, luôn giữ được chất liệu chánh niệm tỉnh giác. Nếu mình mất chánh niệm tỉnh giác, mất niềm tin trong sáng trong đời sống hàng ngày, thì người đệ tử Phật xem như là mất hạnh, mất nết, mất nếp sống của mình.

Và khi nếp sống của mình đã mất, thì mình không còn có cơ hội gì để gọi là biết ân thầy, bạn, cha mẹ, mọi người. Mà đã không biết ân, thì làm sao bảo vệ? Có biết ân cha mẹ, mình mới bảo vệ thanh danh của cha mẹ mình. Có biết ơn thầy, mình mới bảo vệ danh tiết của thầy, mình mới đi theo cái khí tiết của thầy mình. Có biết ân bạn bè, thì mình mới sống có nghĩa. Có biết ân quê hương xứ sở, thì mình mới bảo vệ quê hương. Có biết ơn con người, thì mình mới chăm sóc, mới trân trọng quyền sống của con người.

Chúng ta thấy ân nghĩa, hiếu kính, quyền sống, cũng đều từ nơi chánh niệm tỉnh giác mà ra cả. Nếu khôngchánh niệm tỉnh giác, thì không có tuệ, và không có tuệ thì đâu có thấy được sự liên hệ giữa mình và người. Giới định tuệ là chất liệu xuyên suốt trong mọi lãnh vực, trong mọi hành xử của người đệ tử Phật mà chánh niệm tỉnh giác cần phải thực tập miên mật để giới định tuệ luôn luôn sống độnghiện tiền.

Đám mây ở trên trời không có liên quan gì đến mình ở dưới đất này hết. Nghĩ như vậy và nói như vậy, tức là không có chánh niệm tỉnh giác. Đám mây ở trên trờivẫn có liên quan chặt chẽ với mình. Giả như đám mây đó bị nhiễm độc, và một trận mưa rơi xuống, thì liệu ở dưới này mình có thảnh thơi được hay không? Nếu đám mây bị vẩn đục, nó đi vào trong không khí, vào trong nước mưa, nó rơi xuống, thì cả thế gian này đều lãnh sẹo hết.

Nếu có dịp, chúng ta đi về biển, ngắm mặt trăng, ngắm sóng biển, chúng ta sẽ thấy được sự liên hệ rất là chặt chẽ của chúng. Khi mặt trăng lên là nước biển lên, và nước biển lên như là nó đùa giỡn với mặt trăng vậy. Nó đẹp đến thế! Với con mắt của phàm tục, con mắt thiếu chánh niệm tỉnh giác, thì mình sẽ thấy mặt trăng và sóng biển không có liên hệvới nhau cả. Khi ta có chánh niệm tỉnh giác, thì ta nhìn cái gì cũng vui, đi đâu mình cũng có bạn cả, mặt trời là bạn mình, đám mây bạc là bạn mình, núi xanh là bạn mình, con đường, đám hoa dại, con còng bò trên bãi cát cũng đều là bạn mình, v.v...

Vậy thì có gì mà ta lại sợ cô đơn! Lẽ đương nhiên chúng ta phải thực tập để có được chất liệu chánh niệm tỉnh giác, có chất liệu của tuệ quán minh triệt trong đời sống hằng ngày, để niềm tin sáng trong của chúng ta có thể khởi sinh từ chất liệu thực tập ấy, khiến chúng ta có thể cảm nhận được rằng: “Sự sống là tất cả ”.

Thích Thái Hòa
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1304)
Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt.
(Xem: 1586)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 2085)
Quán tưởngphương pháp Phật tử áp dụng hằng ngày, luyện cả thân tâm, đem lại sự hòa hợp giữa tinh thầnvật chất, giữa con ngườithiên nhiên.
(Xem: 1839)
Hành động phản ánh được ý thức, tính cách của mỗi người, lời nói, suy nghĩ thế nào sẽ biểu hiện ra hành động như thế đó,
(Xem: 1204)
Hôm ra mắt đợt đầu 29 cuốn của Thanh Văn Tạng trong công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hội Đồng Hoằng PhápHội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời tổ chức tại Little Saigon, Miền Nam California, Hoa Kỳ, vào ngày 19 tháng 3 năm 2023
(Xem: 1384)
Đạo Phật được biết đến như một tôn giáo hiền hòa nhất và điều đặc biệtcuộc đời vị lãnh đạo tinh thần tối cao của đạo Phật gắn liền với những cái cây.
(Xem: 1387)
Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành - trụ - hoại - không.
(Xem: 1667)
Dĩ nhiên là người phàm chúng ta không ai thấy được địa ngục, trừ Đức Phật và các bậc Thánh La-hán.
(Xem: 1440)
ghiệp là tất cả những hành động có tác ý, biểu hiện thường xuyên bằng thân, khẩu, hay ý.
(Xem: 1309)
Phật giáo không chỉ chủ trương từ bi đối với con người, tôn trọng đối với mọi sinh mệnh mà còn phải bảo vệ môi trường sống thiên nhiên,
(Xem: 1458)
Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật,
(Xem: 1389)
Trước đây, vào thời niên thiếu, tôi chưa từng tín ngưỡng bất kỳ một tôn giáo nào. Tôi đang đứng giữa ngã tư đường, không Phật cũng không Đạo.
(Xem: 1702)
Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có một cái “Tôi” và tính chấp thủ, nhưng có người ý thứcquán chiếu được điều đó
(Xem: 1412)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1357)
Nhưng giới khoa học vẫn còn hoang mang trong nhận định thế giới vật chất đời thường là ảo, không có thực thể.
(Xem: 1371)
quan niệm rằng người có danh phận, giàu sang là do phước và cúng dường, hộ trì người có phước thì được phước nhiều hơn?
(Xem: 1449)
Hai từ chiến tranh, không ai trong chúng ta là không nghe đến. Trong quá khứ đã có rất nhiều cuộc chiến tranh xảy ra trên quả địa cầu nầy,
(Xem: 1632)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có tên gọi đầy đủ là :"Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm",
(Xem: 1531)
Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện.
(Xem: 1484)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phương pháp phòng hộ các căn môn được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 1347)
Kể từ khi con người biết xử dụng tiền bạc làm đơn vị trao đổi mua sắm đến nay, thì không ai là không cần đến tiền!
(Xem: 1442)
Đối trong nhà Phật thì thế gian gồm có khí thế gianchúng sanh thế gian.
(Xem: 1146)
Đây là một trường hợpThiền sư Thích Nhất Hạnhcộng đồng của Thầy đã thay đổi cuộc đời của một người.
(Xem: 1900)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1329)
Đời tôi gần giống như cuộc đời của cậu bé mồ côi ở Viện Dục Anh trong văn Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi đều sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Đời tôi gắn liền với tập thể, lớn lên và nương tựa vào tập thể.
(Xem: 1492)
Để giúp người Phật tửđời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản.
(Xem: 2830)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1496)
Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt…
(Xem: 1670)
Điều phi đạo là những việc dẫn đến sự hao tài, thứ nhất đó là đam mê cờ bạc.
(Xem: 1546)
Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(Xem: 1990)
Nếu có ai đó hỏi Phật Pháp có gì hay thì những người đệ tử Phật sẽ trả lời như thế nào?
(Xem: 1532)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1730)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1934)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(Xem: 2106)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(Xem: 1582)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(Xem: 2554)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(Xem: 1664)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 1843)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(Xem: 1791)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(Xem: 1547)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(Xem: 2299)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1735)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1793)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1665)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2036)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
(Xem: 2020)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2168)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1669)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 1984)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant