Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đi vào bài thơ Hoa Mộc cận của Nguyễn Trãi

26 Tháng Tám 201100:00(Xem: 11788)
Đi vào bài thơ Hoa Mộc cận của Nguyễn Trãi

ĐI VÀO BÀI THƠ HOA MỘC CẬN CỦA NGUYỄN TRÃI
Nguyễn Thế Đăng

blankMộc cận
 
Ánh nước hoa in một đóa hồng
Vẫn nhơ chẳng bén, Bụt là lòng
Chiều mai nở chiều hôm rụng
Sự lạ cho hạy tuyệt sắc không


Mộc cận là bông dâm bụt.

Chúng ta thử đi vào sự nhìn thấy một bông dâm bụt của Nguyễn Trãi là như thế nào.

Ánh nước hoa in một đóa hồng

Bông dâm bụt đỏ in hình trên mặt nước. Chúng ta không biết Nguyễn Trãi nhìn ảnh bông in trên mặt nước hay bông thật. Nhưng có thể chắc một điều, lúc đó cảnh vật yên tĩnh và tâm hồn của ông cũng yên tĩnh.

Yên tĩnh là sao? Là “biển tâm không có sóng”. Không có sóng xao động của một chủ thể tìm cách nắm bắt và một đối tượng cho sự nắm bắt, chiếm hữu.

Đấy là một trạng thái thiền định tự nhiên. Trạng thái thiền định tự nhiên này là “tâm vô sở trụ”, tâm không bám trụ vào đâu cả.

Vẫn nhơ chẳng bén, Bụt là lòng

Không có chút vết nhơ nào nơi bông bụt. Như thế bởi vì không có chút vết nhơ nào nơi tâm. Vết nhơ nơi tâm là ý niệm về một cái tôi (ngã)và ý niệm có một đối tượng để thương ghét, lấy bỏ… Khi không có vết nhơ nào nơi gương tâm thì tâm trọn vẹn là cảnh, cảnh trọn vẹn là tâm. Tâm cảnh hợp nhất thì thấy ra bông bụt. Thấy ra bản chất, thể tánh của bông bụt.

Bông bụt đó bày hiện bản chất của nó, thể tánh của nó, lòng của nó. Bản chất, thể tánh, lòng đó là Bụt (Phật): “Bụt là lòng”. Bụt hay Phật là Chân Như là Như Lai… Kinh Kim Cương nói: “Thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy Như Lai”. Bông bụt đó có bản chất, có lòng là Chân Như. Từ Chân Như sanh khởi, diễn tiến trong và chính là Chân Như, và tiêu tan trong Chân Như.

Không chỉ một bông bụt, mà mọi sự vật, mọi con người, mọi sinh vật đều từ Chân Như sanh khởi, diễn tiến trong Chân Như và chính là Chân Như rồi tiêu chìm trong Chân Như. Sự khác biệt của mọi vật là do nghiệp riêng của chúng, chứ bản chất chúng vẫn là Chân Như. Như sóng sanh khởi từ đại dương, biến thành một làn sóng di động, có cao thấp có khác hướng thế nào thì vẫn là nước của đại dương, rồi tan chìm trở lại đại dương. Sóng là một biểu hiện của đại dương. Sóng chính là đại dương biểu hiện.

Như thế, toàn bộ đời sống, có hay không, thêm hay bớt, khởi hay chìm. Sanh hay diệt, chỉ là Chân Như. Vĩnh viễn Chân Như. Từ vô thủy đến vô chung.

Chiều mai nở chiều hôm rụng.

“Chiều” là chữ để chỉ thời gian. Chiều là “buổi”. Nở hay rụng cũng chỉ là Chân Như. Nở và rụng là sự biểu hiện của Chân Như. Mọi sự là trò chơi không đáy của Chân Như hay Tánh Không, là sự diễn dịch của Chân Như hay Tánh Không. Trong đại dương, chỉ có những ai tự đồng hóa mình, tự công nhận mình là bọt sóng mới chịu sự chìm nổi, sanh diệt, thêm bớt, dơ sạch... Không đồng hóa với cái gì cả thì chỉ có đại dương không sanh không diệt không dơ không sạch, không tăng không giảm.

Nếu không thấy buổi mai hoa nở, buổi chiều hôm rụng thì đây là một cái tâm vô tri vô giác như gỗ đá.

Nếu chỉ thấy buổi mai hoa nở, buổi chiều hôm rụng thì đây là một cái tâm của người bình thường, lệ thuộc vào sanh già bệnh chết.

Nếu thấy lòng hoa là Bụt, thì có nở có rụng chỉ là chân lý quy ước tương đối; còn trong chân lý tối hậu, tuyệt đối thì hoa nở hoa rụng mà thật ra không nở không rụng. Nói cách khác, sanh diệt mà chẳng sanh diệt, sanh tửNiết bàn, sanh tử tức Niết bàn.

Sự lạ cho hay tuyệt sắc không

Lạ là “diệu” như chữ diệu trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Sự lạ là diệu pháp, là “phép lạ”. Tuyệt là cắt đứt, chấm dứt.

Sự lạ ấy vượt khỏi tâm, ý, ý thức. Vượt khỏi ý niệm về sắc và không, vì sắc và không bây giờ chỉ là hý luận.

Bài thơ chấm dứt bằng sự chấm dứt của mọi ý niệm, mọi ngôn ngữ. Khi thực tại hiển lộ rõ rànghoàn toàn với cái thấy thì “ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ tuyệt”.

Bông bụt bây giờ không chỉ có lòng là Bụt. Mà bây giờ bông bụt là Bụt, là Phật. (“Tất cả các pháp đều là Phật pháp” Kinh Kim Cương). Hoa ấy là Hoa Phật. Cái thấy hoa ấy là cái thấy Phật.

Đây là cái thấy của người ngộ đạo:

Các pháp từ xưa nay

Thường vốn tự tịch diệt

(Chư pháp tùng bổn lai

Thường tự tịch diệt tướng)

Kinh Pháp Hoa

Bông dâm bụt, trong con mắt thanh tịnh (pháp nhãn thanh tịnh) của Nguyễn Trãi, là hoa Pháp (Pháp Hoa), là hoa Phật. Đã là Pháp, Phật thì không thể nghĩ bàn, vì vượt khỏi sự tới lui của ngôn ngữ và sự khởi lên của tư tưởng:

Pháp ấy trụ Pháp vị

Tướng thế gian thường trụ.

(Thị pháp trụ pháp vị

Thế gian tướng thường trụ)

Kinh Pháp Hoa

Thơ ca là ngôn ngữ tìm về cội nguồn tối hậu của nó. Tìm về cội nguồn tối hậu hay tìm đến tương lai rốt ráo cũng chỉ là một cách nói. Cội nguồn tối hậu hay tương lai rốt ráo đó là cái “tuyệt sắc không”, là cái “thường tự tịch diệt tướng”. Chạm đến đươc cội nguồn của nó, ngôn ngữ trở thành bất tử.

Lịch sử và những biến cố thời cuộc, dù tốt dù xấu, rồi sẽ qua đi. Nhưng ngôn ngữtác giả cùa nó thì còn lại. Ngôn ngữ thì còn lại một khi nó đã chạm đến được cái thể tánh của nó, cái lòng của nó, tức là cái vĩnh cửu, cái vô sanh.

Nguyễn Trãi đã chạm đến được cái bản chất của ngôn ngữ, và như thế, của cả lịch sử. Bản chất của ngôn ngữ và của lịch sửbản chất của một bông bụt chiều mai nở, chiều hôm rụng. Bản chất đó là cái vô sanh, cái vĩnh cửu. Ông không cần lịch sự minh oan cho cái chết của ông, như vua Lê Thánh Tông đã làm.

Dù sinh ra sau ông năm thế kỷ, tôi cảm thấy hãnh diện vì được làm người Việt Nam, làm một đồng bào hậu sinh của ông. Đất nước Việt Nam đã sinh ra những con người như ông, đất nước ấy cũng phải bất tửvinh quang như ông.

Bởi vì tôi chưa từng được đọc một bài thơ nào về hoa, dù ở phương Đông hay phương Tây. Dù cổ điển hay hiện đại, đem lại sự thỏa mãn trọn vẹn như bài thơ này.

Tác giả Nguyễn Thế Đăng gởi
Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1072)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1015)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1057)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1061)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1202)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 959)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 936)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1004)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1134)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1164)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 928)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1034)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 995)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1099)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1099)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1239)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1281)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1077)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1085)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1184)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1216)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1155)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1439)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1081)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1148)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1179)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1042)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1083)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1193)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1275)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1344)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1508)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1366)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1297)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1067)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
(Xem: 1176)
Người tu ở một mình hay cùng với đại chúng, chuyên tu hay đi vào đời để hoằng phápsở thích, hạnh nguyện riêng của mỗi người.
(Xem: 1150)
Nhiều Thiền sư tiếp cận với cộng đồng Hoa Kỳ và Tây phương, trong những thời gian đầu dạy Thiền, thường tránh nói về giới,
(Xem: 1203)
Khi sợ hãi, lo lắng, tâm ta đắm chìm trong những ý nghĩ về các biến cố kinh khủng có thể xảy ra trong tương lai.
(Xem: 1166)
Ăn chay là một thói quen ăn uống phổ biến gần gũi với tinh thần từ bi của Phật giáo.
(Xem: 1102)
“Xứng tánh làm Phật sự” là một câu trong bài nguyện hương mở đầu cho bất kỳ thời tụng kinh nào.
(Xem: 1316)
Sinh tử phiền não của mỗi người, đều phải dựa vào công năng tu hành của chính bản thân để đạt được giải thoát;
(Xem: 1384)
Một khi thân tâm ta thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ tùy thuộc thanh tịnh.
(Xem: 1410)
Trong cuộc sống, dù khôn khéo hay thánh thiện đến mấy thì không một ai có thể tránh khỏi bị miệng lưỡi người đời chê trách,
(Xem: 1310)
Rất khó tìm hạnh phúcthế gian này. Thật vậy, khi nhìn quanh, ta không thấy gì ngoài đau khổ, phiền muộnhỗn loạn.
(Xem: 1259)
An cưcấm túc ở một chỗ, hạn chế tuyệt đối sự đi lại và nỗ lực tu học trong ba tháng mùa mưa, gọi là kiết hạ.
(Xem: 1086)
Trung Luận của Bồ tát Long Thọ phá trừ mọi bám chấp thuộc về kiến (cái thấy, quan niệm) của con người để hiển bày tánh Không.
(Xem: 1169)
Giáo pháp của Đức Phật nhằm hướng dẫn, giúp chúng sinh đối trị, vượt qua phiền não của chính mình để chuyển hóa thân tâm
(Xem: 1182)
Giới lớn nhất là giới bình đẳng. Phải thấy tâm bình đẳng. Phải giữ tâm bình đẳng.
(Xem: 1246)
Trong tâm lý học, cảm tính là một nội hàm bao gồm những cảm xúc bên trong con người, là một quá trình
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant