Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đi vào bài thơ Hoa Mộc cận của Nguyễn Trãi

26 Tháng Tám 201100:00(Xem: 11866)
Đi vào bài thơ Hoa Mộc cận của Nguyễn Trãi

ĐI VÀO BÀI THƠ HOA MỘC CẬN CỦA NGUYỄN TRÃI
Nguyễn Thế Đăng

blankMộc cận
 
Ánh nước hoa in một đóa hồng
Vẫn nhơ chẳng bén, Bụt là lòng
Chiều mai nở chiều hôm rụng
Sự lạ cho hạy tuyệt sắc không


Mộc cận là bông dâm bụt.

Chúng ta thử đi vào sự nhìn thấy một bông dâm bụt của Nguyễn Trãi là như thế nào.

Ánh nước hoa in một đóa hồng

Bông dâm bụt đỏ in hình trên mặt nước. Chúng ta không biết Nguyễn Trãi nhìn ảnh bông in trên mặt nước hay bông thật. Nhưng có thể chắc một điều, lúc đó cảnh vật yên tĩnh và tâm hồn của ông cũng yên tĩnh.

Yên tĩnh là sao? Là “biển tâm không có sóng”. Không có sóng xao động của một chủ thể tìm cách nắm bắt và một đối tượng cho sự nắm bắt, chiếm hữu.

Đấy là một trạng thái thiền định tự nhiên. Trạng thái thiền định tự nhiên này là “tâm vô sở trụ”, tâm không bám trụ vào đâu cả.

Vẫn nhơ chẳng bén, Bụt là lòng

Không có chút vết nhơ nào nơi bông bụt. Như thế bởi vì không có chút vết nhơ nào nơi tâm. Vết nhơ nơi tâm là ý niệm về một cái tôi (ngã)và ý niệm có một đối tượng để thương ghét, lấy bỏ… Khi không có vết nhơ nào nơi gương tâm thì tâm trọn vẹn là cảnh, cảnh trọn vẹn là tâm. Tâm cảnh hợp nhất thì thấy ra bông bụt. Thấy ra bản chất, thể tánh của bông bụt.

Bông bụt đó bày hiện bản chất của nó, thể tánh của nó, lòng của nó. Bản chất, thể tánh, lòng đó là Bụt (Phật): “Bụt là lòng”. Bụt hay Phật là Chân Như là Như Lai… Kinh Kim Cương nói: “Thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy Như Lai”. Bông bụt đó có bản chất, có lòng là Chân Như. Từ Chân Như sanh khởi, diễn tiến trong và chính là Chân Như, và tiêu tan trong Chân Như.

Không chỉ một bông bụt, mà mọi sự vật, mọi con người, mọi sinh vật đều từ Chân Như sanh khởi, diễn tiến trong Chân Như và chính là Chân Như rồi tiêu chìm trong Chân Như. Sự khác biệt của mọi vật là do nghiệp riêng của chúng, chứ bản chất chúng vẫn là Chân Như. Như sóng sanh khởi từ đại dương, biến thành một làn sóng di động, có cao thấp có khác hướng thế nào thì vẫn là nước của đại dương, rồi tan chìm trở lại đại dương. Sóng là một biểu hiện của đại dương. Sóng chính là đại dương biểu hiện.

Như thế, toàn bộ đời sống, có hay không, thêm hay bớt, khởi hay chìm. Sanh hay diệt, chỉ là Chân Như. Vĩnh viễn Chân Như. Từ vô thủy đến vô chung.

Chiều mai nở chiều hôm rụng.

“Chiều” là chữ để chỉ thời gian. Chiều là “buổi”. Nở hay rụng cũng chỉ là Chân Như. Nở và rụng là sự biểu hiện của Chân Như. Mọi sự là trò chơi không đáy của Chân Như hay Tánh Không, là sự diễn dịch của Chân Như hay Tánh Không. Trong đại dương, chỉ có những ai tự đồng hóa mình, tự công nhận mình là bọt sóng mới chịu sự chìm nổi, sanh diệt, thêm bớt, dơ sạch... Không đồng hóa với cái gì cả thì chỉ có đại dương không sanh không diệt không dơ không sạch, không tăng không giảm.

Nếu không thấy buổi mai hoa nở, buổi chiều hôm rụng thì đây là một cái tâm vô tri vô giác như gỗ đá.

Nếu chỉ thấy buổi mai hoa nở, buổi chiều hôm rụng thì đây là một cái tâm của người bình thường, lệ thuộc vào sanh già bệnh chết.

Nếu thấy lòng hoa là Bụt, thì có nở có rụng chỉ là chân lý quy ước tương đối; còn trong chân lý tối hậu, tuyệt đối thì hoa nở hoa rụng mà thật ra không nở không rụng. Nói cách khác, sanh diệt mà chẳng sanh diệt, sanh tửNiết bàn, sanh tử tức Niết bàn.

Sự lạ cho hay tuyệt sắc không

Lạ là “diệu” như chữ diệu trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Sự lạ là diệu pháp, là “phép lạ”. Tuyệt là cắt đứt, chấm dứt.

Sự lạ ấy vượt khỏi tâm, ý, ý thức. Vượt khỏi ý niệm về sắc và không, vì sắc và không bây giờ chỉ là hý luận.

Bài thơ chấm dứt bằng sự chấm dứt của mọi ý niệm, mọi ngôn ngữ. Khi thực tại hiển lộ rõ rànghoàn toàn với cái thấy thì “ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ tuyệt”.

Bông bụt bây giờ không chỉ có lòng là Bụt. Mà bây giờ bông bụt là Bụt, là Phật. (“Tất cả các pháp đều là Phật pháp” Kinh Kim Cương). Hoa ấy là Hoa Phật. Cái thấy hoa ấy là cái thấy Phật.

Đây là cái thấy của người ngộ đạo:

Các pháp từ xưa nay

Thường vốn tự tịch diệt

(Chư pháp tùng bổn lai

Thường tự tịch diệt tướng)

Kinh Pháp Hoa

Bông dâm bụt, trong con mắt thanh tịnh (pháp nhãn thanh tịnh) của Nguyễn Trãi, là hoa Pháp (Pháp Hoa), là hoa Phật. Đã là Pháp, Phật thì không thể nghĩ bàn, vì vượt khỏi sự tới lui của ngôn ngữ và sự khởi lên của tư tưởng:

Pháp ấy trụ Pháp vị

Tướng thế gian thường trụ.

(Thị pháp trụ pháp vị

Thế gian tướng thường trụ)

Kinh Pháp Hoa

Thơ ca là ngôn ngữ tìm về cội nguồn tối hậu của nó. Tìm về cội nguồn tối hậu hay tìm đến tương lai rốt ráo cũng chỉ là một cách nói. Cội nguồn tối hậu hay tương lai rốt ráo đó là cái “tuyệt sắc không”, là cái “thường tự tịch diệt tướng”. Chạm đến đươc cội nguồn của nó, ngôn ngữ trở thành bất tử.

Lịch sử và những biến cố thời cuộc, dù tốt dù xấu, rồi sẽ qua đi. Nhưng ngôn ngữtác giả cùa nó thì còn lại. Ngôn ngữ thì còn lại một khi nó đã chạm đến được cái thể tánh của nó, cái lòng của nó, tức là cái vĩnh cửu, cái vô sanh.

Nguyễn Trãi đã chạm đến được cái bản chất của ngôn ngữ, và như thế, của cả lịch sử. Bản chất của ngôn ngữ và của lịch sửbản chất của một bông bụt chiều mai nở, chiều hôm rụng. Bản chất đó là cái vô sanh, cái vĩnh cửu. Ông không cần lịch sự minh oan cho cái chết của ông, như vua Lê Thánh Tông đã làm.

Dù sinh ra sau ông năm thế kỷ, tôi cảm thấy hãnh diện vì được làm người Việt Nam, làm một đồng bào hậu sinh của ông. Đất nước Việt Nam đã sinh ra những con người như ông, đất nước ấy cũng phải bất tửvinh quang như ông.

Bởi vì tôi chưa từng được đọc một bài thơ nào về hoa, dù ở phương Đông hay phương Tây. Dù cổ điển hay hiện đại, đem lại sự thỏa mãn trọn vẹn như bài thơ này.

Tác giả Nguyễn Thế Đăng gởi
Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1672)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1660)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1842)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1850)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1518)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1685)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2020)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1771)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2333)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1665)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1668)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1624)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2077)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1902)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2040)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1589)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2192)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1555)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1816)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1701)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1771)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1613)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2357)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2068)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2020)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1833)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2172)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1740)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1858)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2088)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1622)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1885)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1872)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2098)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1863)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1717)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1691)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1702)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1813)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2110)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1670)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1640)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2197)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1910)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1721)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2289)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1901)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 1997)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2189)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2469)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant