Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thầy tôi

15 Tháng Chín 201100:00(Xem: 12508)
Thầy tôi


THẦY TÔI

 Lần đầu tiên tôi gặp thầy là ngày đầu tiên tôi bước chân vào tu viện bắt đầu cuộc đời tu học của mình. Lúc đó, tôi vừa trải qua một chuyến hành trình cả ngàn cây số từ Sài Gòn ra Huế, người vừa mệt mỏi vừa buồn ngủ. Nhưng em tôi nói là phải đi chào ôn trụ trì và ôn Từ Đức. “Ôn” là từ của người miền trung dùng để gọi những bậc tôn túc nhưng hai chữ “Từ Đức” làm cho tôi có ấn tượng. Từ Đức có nghĩa là hiền từ, từ biđức hạnh. Từ Đức là tên một ngôi chùa ở Cam Ranh-Khánh Hòa mà thầy tôi làm trụ trì. Vì muốn xây dựng một chúng tu tập “đi như một dòng sông” nên thầy tôi phải rời Từ Đức để ra ở Từ Hiếu-Huế. Khi chào ôn trụ trì Từ Hiếu xong, em tôi dắt tôi đến phòng của ôn Từ Đức để chào nhưng không gặp, chúng tôi về lại tăng xá để nghỉ ngơi. Mọi người thường tránh không gọi pháp danh của thầy mà gọi là “Ôn Từ Đức”, chỉ gọi tên ngôi chùa thầy đang trụ trì để tỏ lòng tôn kính. Nhưng với tôi, tôi chỉ gọi thầy tôi là “Thầy”. Chữ “Thầy” nghe thật gần gũi, thân thương và cũng đã bao gồm tất cả nghĩa với lòng quý kính của tôi đối với thầy.

 ht_giac_vien Đang loay hoay dọn chỗ nghỉ, tôi nghe một giọng nói nhẹ nhẹ, trầm trầm, vui vui, mang âm điệu miền trung từ ngoài cửa “Đâu, ai là người mới tới đâu?”. Tôi quay ra thì thấy một ông thầy độ khoảng 60 tuổi, dáng người thấp thấp, gầy gầy mang một vẻ thanh thoát hiền từ với cái nét của một nhà tu khổ hạnh, nét mặt tươi nhuần nhìn tôi cười nhẹ và hỏi “Con mới tới phải không?”. Sau vài lời chào hỏi, thầy bảo tôi viết cho thầy một bài về hoàn cảnh gia đìnhtâm nguyện xuất gia của mình. Với trạng thái mệt mỏi sau một chuyến đi dài cả ngàn cây số thì không làm sao tôi có thể viết một bài văn hay được, tôi viết cho thầy một bài mà sau đó tôi đọc lại cũng thấy buồn cười, không phải là một bài viết của một người có học hành đàng hoàng mà giống như bài viết của một đứa học trò cấp hai. Tôi nộp bài cho thầy xong, buổi chiều, thầy gặp tôi và nói “bài viết gì mà câu văn nó cụt cụt làm sao đó, con viết lại cho thầy bài khác nhé”. Tôi vâng lời nhưng xin thầy cho tôi hẹn vài ngày sau sẽ nộp, thầy đồng ý. Tôi cũng hơi khó chịu vì tại sao cứ phải viết đi viết lại, sau này tôi mới biết đó là thầy tập cho chúng tôi cách làm văn và cách tư duy để chia sẻ kinh nghiệm tu tập của mình trước đại chúng.

 Với chúng tôi, thầy không chỉ là người thầy mà thầy như người cha, như người mẹ, như người anh và đôi khi như một người bạn, thầy luôn gần gũi theo sát từng anh em trong chúng để hiểu được tính tình và tâm tư của từng người để thầy có cách nâng đỡ, dạy dỗ. Thầy làm cho chúng tôi không có cảm giác là đang sống trong tu viện, đang sống xa nhà mà chúng tôicảm giác là mình như đang được ở nhà, đang được ở gần với cha mẹ, anh em. Có những đêm không ngủ, thầy đi đến từng phòng trong tăng xá để xem anh em ngủ như thế nào, có người nằm co ro không đắp mền thì thầy kéo mền đắp cho. Có người nằm thò tay, chân ra khỏi mùng thì thầy kéo lại để chúng tôi nằm không bị muỗi cắn. Lúc mới đi tu, ai cũng có những tập khí ngoài đời của mình, tất cả anh em chúng tôi đều chưa quen được với thời khóa của tu viện, nên mỗi sáng sau khi chuông thức chúng thỉnh xong là thầy tôi cầm đèn đi một vòng tăng xá để đánh thức chúng tôi dậy. Đến trước mỗi phòng, thầy gõ vào cửa ba tiếng và cầm đèn rọi vào phòng, có những em dậy không nổi, thầy đến bên để đánh thức, có lần, có em do ngủ say quá thầy gọi mãi không dậy còn đạp thầy một cái ngã lăn, nghe kể như vậy tôi xót thầy lắm. Vì với tôi, từ sau khi học xong, đi làm va chạm nhiều, tôi luôn muốn tìm cho mình một người thầy để quý kính, có thể cảm phục được mình và có đức hạnh đủ khả năng để giúp tôi thuần hóa được bản ngã và tôi đã được gặp thầy. Ở thầy có đầy đủ phẩm hạnh của một người thầy mà tôi đang tìm, nên tôi rất thương kính và trân quý thầy. Ở gần thầy, tôi cảm thấy thật ấm áp, trong lòng thật thanh thoát, nhẹ nhàng. Những lời dạy của thầy giúp tôi hiểu được nhiều điều trong việc tu tập. Thầy dạy cho chúng chúng tôi từng lời ăn tiếng nói, từ cách bước đi, từ cách ăn như thế nào để đúng là mình đang ăn cơm chứ không phải mình đang ăn quá khứ, đang ăn tương lai, cách suy nghĩ, cách tư duy, cách nhìn một sự việc, cách hành xử như thế nào để đúng với phẩm chất của một vị tu sĩ. Những việc chúng tôi làm hàng ngày như đi, đứng, nằm, ngồi, ăn cơm, rửa bát, giặt áo, kinh hành, những việc mà tôi tưởng chừng mình đã biết làm từ lâu, nhưng thực ra vì cuộc sống bận rộn nên lúc nào cũng làm như bị ma đuổi, làm mà nghĩ đến những việc đâu đâu nên thực sự là không làm. Thầy luôn sẵn sàng ngồi nghe chúng tôi chia sẻ những khó khăn của mình để tìm cách nâng đỡ, dạy dỗ, giúp chúng tôi tháo gỡ những khó khăn của chính mình để vững bước trên con đường tu tập.

 Tôi chưa bao giờ thấy thầy tôi nổi giận, cho dù anh em chúng tôi có làm điều sai lầm. Thầy thường nhỏ nhẹ, nhắc nhở và dạy thật cặn kẽ mỗi khi chúng tôi phạm lỗi. Với chúng tôi, thầy luôn dùng ái ngữ để giáo huấn và thầy dùng chính oai nghi tế hạnh của mình để chúng tôi thực tập theo. Sau mỗi lần được thầy nhắc nhở, nhìn thấy được khuyết điểm và lỗi lầm của mình, chúng tôi lại quyết tâm thực tập sao cho không phạm phải những lỗi mà mình đã vấp phải. Ở thầy, tôi thấy luôn có sự thanh thoát, oai nghiêm, từ bi, vững chãi. Tôi nghĩ là mình không đủ từ ngữ để diễn tả hết được phẩm hạnh và oai đức của thầy.

 Thời gian gần thầy giúp tôi thay đổi rất nhiều. Tôi như được làm mới lại, không còn là chàng thanh niên sôi nổi, nóng nảy, hiếu động mà giờ đây tôi là một tu sĩ điềm tĩnh, hiền lành, nhẹ nhàng, vững chãi, dễ tha thứ, dễ chấp nhận mọi thứ diễn ra xung quanh mình. Giờ đây, tôi không còn được ở gần thầy, những lời dạy của thầy tôi cũng không nhớ hết nhưng tôi áp dụng được vào nếp sống tu tập của mình. Và hình ảnh thầy luôn nằm trong tâm tôi, hình dáng một vị thầy già thấp thấp, gầy gầy với khuôn mặt xương xương tươi nhuần, với ánh mắt hiền từ, tướng đi hơi khòm với dáng vẻ thanh thoát, tự tại, oai nghiêm vững chãi, giọng nói trầm ấm mang âm hưởng miền trung có sức thuyết phục người nghe. Với tôi, thầy như một tấm gương sáng mà tôi cứ phải soi mình vào tấm gương ấy để cố gắng trên con đường tu tập.

 Thầy tôi, thượng Giác hạ Viên, trụ trì chùa Từ Đức, Cam Ranh-Khánh Hòa

Hoằng Tín

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1486)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 1932)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1762)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 1887)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1478)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2063)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1433)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1672)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1583)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1650)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1472)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2219)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 1907)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 1853)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1687)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2002)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1621)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1764)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 1973)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1512)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1757)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1727)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 1971)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1745)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1602)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1573)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1588)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1674)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 1955)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1542)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1503)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2025)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1783)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1590)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2131)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1781)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 1856)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2052)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2320)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2350)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 1883)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2324)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1691)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1717)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2053)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2581)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1475)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1442)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1596)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1431)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant