Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ánh lửa vườn đêm

23 Tháng Chín 201100:00(Xem: 9931)
Ánh lửa vườn đêm


Trời tối mịt. Mưa rả rích. Mưa giăng giăng kín lối. Con đường tắt dẫn qua các khu vườn lầy lội ngập nước. Không nhìn thấy gì, thầy ngước lên trời dõi tìm một ánh sao đêm. Có tiếng xe lửa xập xình từ xa. Từng đóm sáng vụt qua nhanh trong đêm vắng. Không gian thoáng dậy mùi hương hoa cải nồng nàn, quen thuộc.

Đêm tối. Đường về chùa không còn xa, nhưng bước chân thầy đã thấm mỏi. Đôi dép cao su lấm bùn lê từng bước dài nặng trĩu, rồi dừng lại bên ngoài một chái hiên. Ánh sáng hắt ra từ bóng đèn dầu tim nhỏ, soi tỏ dáng thấp bé của bà lão đang lui cui dọn dẹp. Thầy cất tiếng hỏi sau một hồi ho khan buốt lạnh:

- Khuya rồi. Sao bà Tư chưa ngủ?

- À! Thầy mới về. Tôi che lại mấy vại dưa. Hồi chiều thằng Bính lấy một ít đem sang chùa. Sợ nó đậy không kín. Mái hiên này hễ trời mưa là dột hết. Tụi nhỏ chưa lợp lại được. Chắc phải đợi qua hết vụ rau.

- Vài hôm nữa, thầy sẽ sang lợp lại cho bà…

- Thôi… thôi- Bà Tư lắc đầu phản đối- Nhà này con cháu đông lắm, để chúng làm thầy ạ. Thầy làm vậy là tụi nó tổn phước chết. Thầy còn bao nhiêu công việc.

- Công việc nào có lợi cho bà con thì làm. Khi chùa có việc, cả xóm cùng đến lo liệu mà. Vả lại, đang vụ gieo trồng. Ai cũng bận.

- Ôi! Ba chuyện này tụi nhỏ rỗi lúc nào làm lúc nấy. Gấp gáp gì đâu thầy. Hồi nãy nghe thầy ho. Để tui đưa thầy củ gừng về chùa bảo thằng Bính đâm nhỏ ra rồi chế nước sôi uống. Thầy về tối quá, lại gặp trời mưa. Rủi bị cảm lạnh thì khổ.

- Được rồi, Bà Tư. Chùa có sẵn gừng. Mưa cũng tạnh. Thầy về chùa tắm nước nóng, uống tách trà gừng là khỏi ngay. Bà Tư đi ngủ sớm cho khỏe. Mà Bính không ngủ với bà sao?

- Nó bảo thích ngủ trên chùa hơn. Tối yên tịnh học bài. Khuya lúc thầy công phu nó cũng trở dậy học. Chứ ở nhà nó nướng tới sáng bét. Lâu nay tui ở một mình, ngủ một mình quen rồi.... Giờ này mà vào mùng cũng không ngủ được. Tuổi già mà...

Thầy chào bà Tư rồi đi nhanh về chùa. Bà lão sống một mình trong căn nhà thờ họ rộng lớn. Con cháu cũng ở quanh quẩn. Bà lão đã hơn tám mươi, lưng còng hẳn xuống, mà dáng đi vẫn nhanh nhẹn mạnh khỏe. Từ ngày có thầy về, bà vui lắm: - Lâu rồi thầy ạ! Chùa có đó mà không có sư. Chờ đợi mãi. Có thầy về... tụi tui chẳng khác nào như cây khô lâu năm, gặp trận mưa rào tưới tắm.

... Bính chong đèn ngồi học bài trên nhà giảng. Thấy thầy về, cậu bé vội đứng lên:- Con vừa hâm cơm và thức ăn. Trên bếp có ấm nước nóng…

Thầy cởi áo ngoài ra, rũ nước mưa:- Thật làm phiền con quá! Thầy dùng cơm ở nhà đám rồi. Thôi để mâm cơm đó làm điểm tâm buổi sớm mai. Bấy giờ thầy đi tắm cái đã. Con học bài xong, nhớ đóng cửa tắt đèn rồi đi ngủ.

Bính rót một tách trà đưa cho thầy:- Con pha trà nóng với gừng, thầy dùng cho giải cảm.

Thầy cười:- Thầy có cảm mạo gì đâu. Nhưng trời lạnh uống trà gừng cũng ấm bụng.

Khuya. Trời lại đổ mưa. Sau thời công phu, thầy bước ra hiên tập vài động tác thư giãn. Giờ này, người trong xóm đã trở dậy. Mọi người tất bật sửa soạn chở rau lên chợ huyện cho kịp. Những bó rau cắt tỉa bó sẵn từ chập tối. Cơn mưa cuối mùa kéo dài làm hư hại hết những khu vườn rau cải. Mấy ngọn đèn dầu trong xóm chập chờn chao liệng trong mưa. Mưa cuối mùa, dai dẳng, thấm lâu.

Ngọn đèn pin quét sáng đoạn đường ranh bên hông chùa. Thầy nhìn theo chiếc xe thồ rau vừa đi qua, cất tiếng hỏi:- Chà! Trời mưa gió thế này mang rau ra chợ bán được không chú Sáu?

Tiếng xe dừng lại cùng giọng nói với qua hàng rào dâm bụt: - Bán được đồng nào hay đồng đó thầy ơi. Rau tới lứa, để ở nhà trời mưa gió cũng hư bỏ hết. Mà thầy dậy sớm vậy?

-Ừ! Công phu khuya xong là thầy thức luôn.

Tiếng xe cọt kẹt xa dần. Trời chưa sáng tỏ. Thầy đưa tay xoa xoa mặt cho bớt lạnh rồi đi xuống bếp. Bính đang nhúm lửa. Anh lửa bập bùng soi tỏ gương mặt cậu bé đang lớn.

- Làm gì nhúm bếp sớm vậy con ?

- Dạ con nấu nước châm bình thủy để thầy pha trà… Chốc nữa lại hâm cơm.

Chừng nào thầy uống sẽ tự nấu được mà. Con lo học bài đi. Sắp thi cử rồi.

- Con vừa học bài vừa nấu nước, cũng đâu mất thời gian lắm, thưa thầy.

- À! Thầy vừa thấy ba con đẩy xe rau đi ngang qua chùa. Tội nghiệp ông già. Trời mưa gió cũng phải đi bỏ rau, thật vất vả quá. Chị Hai con làm công nhân, lương có khá không?

- Dạ! Mỗi tháng chị cũng gởi về phụ ba má lo cho các em ăn học…

- Thôi con học bài đi, để thầy coi cho. Ráng thi cho đậu. Nếu vào Sài Gòn, thầy sẽ gởi con vào chùa sư phụ thầy. Có chỗ ở yên ổn, khỏi lo tiền ăn ở…

- Chị Hai làm ở Sài gòn. Con sẽ ở chung với chị... Chứ ở chùa con thấy ngại lắm.

- Ngại gì con. Chị con làm công nhân cũng ở nhà mướn. Chùa sư phụ thầy xưa naytâm nguyện giúp đỡ sinh viên nghèo hiếu học. Hiện có mấy cậu nhỏ đang trọ học.

Đun thêm vài que củi vào bếp lửa đang cháy bùng, thầy đội nón lá rồi cầm chiếc đèn bảo đi ra thăm vườn. Khu vườn chùa chỉ là khoảnh đất nhỏ nhưng thầy cũng trồng đủ các loại rau cùng vài cây ăn quả. Thấy thầy chăm chăm bón bón mấy luống cải, người trong xóm đi ngang ai cũng nói:

- Thầy trồng làm chi cho cực. Thích ăn rau cải gì, nói là tụi con nhổ mang sang ngay. Nhà nào cũng trồng rau… cúng dường thầy cho có phước.

Thầy cười:- Tại thầy thích lao động cho mạnh tay mạnh chân đôi chút… Hơn nữa để đất trống cũng uổng. Trồng để có không gian xanh… lại thú vị được nhìn ngắm thành quả lao động của mình. Và cũng tiện. Muốn ăn rau gì, ra vườn là có ngay.

Thầy từng là người làm vườn khi tuổi còn thơ bé. Nhưng tuổi thơ chỉ thích hiếu động, ưa rong chơi, hái hoa bắt bướm, dẫm cả lên mấy luống cải mẹ vừa gieo hạt. Lúc ra vườn, nhìn những dấu chân nhỏ xíu, mẹ gọi đứa con trai đến rồi nhẹ nhàng nói: “Những hạt cải đang nẩy mầm trong lòng đất. Những con bướm vàng thoát sanh từ hoa cỏ. Tất cả mọi sinh vật đều có sự sống tự nhiênchúng ta không có quyền hủy diệt chúng, dù là vô ý vui chơi”

Năm tháng sống đời xuất gia, thầy nỗ lực chuyên tu học tập với mong muốn được dự vào đoàn giảng sư thành phố. Rồi một lần, theo sư phụ đưa đám một người quen về đây... Một vùng đất mới, cư dân chuyên nghề trồng rau cải. Thầy thích thú như bắt gặp một miền tuổi thơ xa lắc. Thầy dạo qua khắp nơi, sắn tay áo cùng mọi người làm vườn. Tưởng chỉ vui chơi dăm bữa. Chẳng ai ngờ có ngày thầy trở lại...

Ngôi chùa tọa lạc nơi cuối xóm, từ khi Thượng Tọa trụ trì viên tịch thì cổng trước ngõ sau luôn đóng kín. Lau sậy mọc lan từ ngoài đến tận trong sân. Chim chóc kéo về làm tổ trên những táng cây, mái ngói, hót vang cả ngày. Đêm đến lũ mèo hoang tụ tập rên rỉ gầm gừ rượt đuổi y như ở bãi tha ma. Không biết các vị bô lão trong làng đưa sư phụ đi tham quan chùa nói những gì, khi trở về, Người liền nhóm họp chư huynh đệ lại:

- Phật tử ngoài ấy... Họ thỉnh cầu tha thiết quá và sư phụ cũng đã nhận lời hứa khả. Sư phụ chẳng biết tính sao hơn là mong muốn thiện ý hỗ trợ của các ông. Thôi thì vầy... Huynh đệ mỗi người thay nhau ra đó làm Phật sự nửa năm. Vừa trông coi Bổn Tự, vừa gieo duyên giáo hóa dân làng. Đợi sau này gặp người hữu duyên thì giao lại. Các ông thấy thế nào?

Mấy huynh đệ im lặng, như thể đang bận suy nghĩ điều gì lung lắm. Sư phụ quay nhìn khắp lượt, rồi dừng lại nơi thầy. Người hắng giọng ồn tồn:

- Ông đã học xong các chương trình Phật Học, đang lúc rảnh rỗi. Vậy thì ra đó trước một thời gian xem sao. Vừa tịnh dưỡng yên tu vừa trợ duyên hóa đạo cho người...

Thầy hoan hỷ vâng lời sư phụ. Nửa năm, thời gian cũng qua nhanh. Nhưng từng ngày, từng tháng trôi qua. Vậy mà đã ba năm. Mấy lượt thầy quay về, rồi lại khăn gói trở ra. Những huynh đệ, người còn bận học lo thi… Người vừa xong chương trình này, lại đăng ký khóa học khác… Ai cũng có lý do chính đáng để thoái thác. Thầy cũng định bỏ mặc. Nhưng thầy không thể. Thầy không thể đánh mất niềm tin cùng sự kỳ vọng của bao người. Và thế là thầy ở lại, yên lòng làm một ông Từ sớm tối lo tụng kinh niệm Phật. Những trang giáo án, thầy soạn với dự định khi về sẽ thưa sư phụ đi giảng dạy các nơi, còn nằm yên bên góc kệ. Ở một nơi im vắng như thế này, thầy cảm nhận như ngày dài hơn và đêm cũng sâu hơn. Ngày ngày thầy chăm chút làm vườn. Đêm đêm, chìm vào giấc ngủ thầy lại nằm mơ thấy mình trở về bên mẹ... Trở về bên khu vườn của mẹ. Của một thời tuổi thơ. Mẹ không còn. Khu vườn cải hoa vàng lâu rồi chẳng còn ai tới lui chăm sóc.

“Y báo chánh báo mỗi người mỗi khác. Nhưng ở đâu cũng là Phật là chùa. Phật đã bổ xứ ông về nơi chúng sanh cần. Ông nên tùy cảnh tùy duyên làm Phật sự...” Lời sư phụ dạy, thoạt tiên làm thầy cảm thấy khó lòng thích ứng ngay được với hoàn cảnh. Một cảnh chùa quê vắng lặng, nhịp sống đơn điệu tẻ nhạt mà thầy còn biết bao ước vọng lớn lao khác. Bao đêm, thầy ngồi bên khung cửa sổ, dõi theo tiếng còi tàu xa khuất ngoài kia. Tâm trạng của người ngóng chờ đoàn tàu cuối ngày chạy qua... như chờ đợi âm vang của ngày cũ vọng về. Tiếng còi tàu đi qua. Từng đóm lửa trong khu vườn đêm lịm tắt. Thầy vẫn ngồi yên. Lắng nghe tiếng tích tắc của dòng thời gian đang khua động sự sống. Đêm tàn. Rồi ngày đến. Bình minh lại tỏa sáng nơi phía chân trời.

* * *

Ánh nắng chiều xuyên qua cửa sổ làm thầy thức giấc. Bước ra sân, thầy ngạc nhiên nhận ra cây cỏ trong vườn dịu dàng lan tỏa một sắc xuân. Mấy giồng cải ươm xanh nõn mượt mà. Những bụi hoa sứ bị trốc gốc hôm trước, nay đã bắt đầu đâm cành kết nụ. Một năm đầy mưa bão. Mưa tạnh. Nước cũng rút nhanh. Mọi người lại bắt tay vào công việc cho kịp thời vụ. Các ngã đường về thôn xóm trải nhựa, tiếng xe máy nhộn nhàng, tiếng người cười nói rộn ràng tất bật. Màu xanh lan tỏa. Màu xanh của sự bình dị, trong lành, miên viễn.

Mấy chú tiểu đang bắt giàn cho dây mướp leo nơi cuối khu vườn. Bính cũng có mặt. Cậu sinh viên năm cuối vừa trở về thăm nhà. Vẫn mang màu da đen sạm và nhanh nhẹn, Bính cuốn hút mọi người vào công việc bởi sự nhiệt tình năng nỗ. Bính ngồi khuất bên đống cây chà, cậu giật mình ngẩng lên khi nghe tiếng thầy :

- Con mới về hả Bính?

Bính đứng lên chắp tay thưa:- Bạch thầy! Con về mấy hôm rồi.

- Một năm chỉ có mấy ngày về quê, con không ở nhà lo phụ với ba. Sau mùa mưa bão, công việc thật bề bộn. Còn chuyện chùa thì cứ thủng thẳng... Thầy vừa chấm bài thi lớp Phật học trên Tỉnh xong. Định ngày mai bắt tay thu dọn vườn tược. Không ngờ các con giỏi thật...

Bính nhỏ nhẹ thưa:- Dạ... Vườn bên nhà con gieo hạt xong rồi, kịp mùa bán Tết. Thầy lo việc Phật sự nhiều nơi, mấy chú thì bận học. Chỉ vào dịp này con mới đến chùa làm công quả... gọi là đền trả chút ân đức của thầy...

Thầy cười lớn :- Chà! Chàng kỹ sư tương lai cũng biết ăn nói văn vẻ dữ há! Mà này, Sư ông có khỏe không con? Qua năm, thầy dẫn mấy chú về đảnh lễ sư phụ, luôn tiện gởi gắm mấy cậu học sinh dự thi năm tới.

Bính ngồi xuống kể lại chuyện trọ học cho thầy nghe. Chùa sư ông tọa lạc nơi vùng ven, nên vắng vẻ yên tịnh. Sau chùa có đường xe lửa chạy qua. Mỗi ngày ngồi học bài, Bính và đám sinh viên thường dõi theo mỗi chuyến tàu ngược xuôi nam bắc. Bính thấy làng quê mình trên mỗi toa tàu, trên từng khuôn mặt người hiện qua ô cửa nhỏ. Làng quê nghèo khó dưỡng nuôi những người con xa xứ đi tìm ước vọng tương lai. Và tiếng chuông chùa nơi miền đất phương nam ấm trải tình người đã hun đúc nên bao niềm tin chí hướng vẹn toàn.

- Năm tới ra trường rồi? Con dự định về quê, hay ở lại thành phố tìm cơ hội tiến thân như bao người khác.

- Con sẽ trở về quê - Bính nói quả quyết - Con học Nông lâm là để về cống hiến cho quê hương với khả năng có thể. Từ khi còn ở nhà, con đã học được lòng vị tha trang trải của thầy. Sư ông và quý thầy luôn nói như vậy. Thầy đã từ bỏ bao ước mơ nơi phố thị, sẵn sàng đi đến những nơi xa xôi vì chúng sanh, vì mọi người...

Thầy cười nhẹ, lắc đầu:- Thầy cũng chỉ làm theo bổn phận và khả năng thôi, con ạ.

Trời tối dần. Hai thầy trò còn mải mê nói chuyện. Đèn bên đường tỏ sáng. Vài đóm lửa trong khu vườn đêm cũng bừng lên những sắc màu lung linh kỳ ảo. Mùa xuân đang trở về.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 770)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1094)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1265)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 994)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1334)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 752)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 803)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 819)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 791)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 821)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 978)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 994)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 918)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 918)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 845)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1001)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 888)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 983)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 894)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 840)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 947)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1002)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1136)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1603)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1153)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1244)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1102)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 963)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 948)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 792)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1350)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1320)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1261)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1364)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1318)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1463)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1344)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1196)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1254)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1296)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant