Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tâm thư gởi chị

28 Tháng Chín 201100:00(Xem: 11353)
Tâm thư gởi chị


Em viết mấy dòng này cho chị khi mà ngọn gió bấc đang se sắt thổi về. Ngôi chùa nơi vùng ven em ở thời tiết chưa trở lạnh, nhưng khi em về khu Đại Tòng Lâm thăm má mới hay là mùa đông sắp về rồi. Như vậy cũng đồng nghĩa là ngày giỗ chị sắp đến. Hằng năm em chỉ mỗi phận sự là lo chu toàn cho ngày tưởng niệm của chị. Ngày ấy bạn bè chị cũng có nhiều người hỏi thăm và đến dự. Mọi việc cứ bình thường trôi qua như thế mà cũng đã mừơi năm rồi đó... chị có biết không?

Em nói bạn bè chị hỏi thăm là vì họ không biết năm nay em sẽ làm đám giỗ chị ở đâu. Cứ mỗi năm... tùy theo hoàn cảnh kinh tế, hoặc đôi khi theo sở thíchyêu cầu của nhiều người mà em tổ chức một nơi khác. Chắc chị cũng không lạ lắm về ý tưởng này phải không? Sinh tiền chị vẫn thích đi đây đó, thích trải lòng mình với cuộc sống tha nhân, thì khi trở về cát bụi, được nhiều nơi và nhiều người tưởng nhớ, cũng là niềm hạnh phúc có được cho một kiếp số hữu hạn trong cuộc đời này rồi. Mười năm... thời gian chưa đủ dài cho những đứa cháu chị lớn khôn, nhưng cũng quá lâu cho nỗi lòng thương tiếc của bao người dành cho chị. Ngày chị mất... bé Uyên Nguyên, Uyên Nhi chỉ mới chào đời. Bây giờ hai đứa cháu mang tên do chị đặt đang học lớp ba và dưới đôi mắt của chúng thì chị là một bà cô thiên thần luôn được tôn thờ kính ngưỡng, dù chưa một lần cô cháu biết mặt nhau. Đã là thiên thần thì đâu thể nào chết được, ít nhất là trong tâm niệm của những người thân yêu nhất.

 Bây giờ em sẽ kể cho chị nghe về những chuyện đã xảy ra kể từ ngày chị vắng xa cuộc sống. Với ngần ấy năm thì có bao điều để nói, vô số những lẽ thật điều hư mà chị ắt sẽ không bao giờ nghĩ tới. Nhưng mà thôi đi, chị đã yên vui tự tại trong cảnh sắc không rồi thì còn cần biết gì đến sự đời nhiêu khê ấy nữa. Cũng có thể chị đã quán xét và nhìn thấu rõ bao chuyện hỉ nộ ái ố nơi cõi nhân gian này rồi. Tuy vậy, em cũng tạm mượn vài dòng chữ này như tâm tình của đứa em nhỏ gởi đến chị nơi phương trời xa xôi. Chuyện đời thì nhiều, chuyện đạo cũng không ít. Thôi thì em chỉ nói cho chị nghe về má của chúng mình. Là người con chí hiếu, chị hẳn muốn biết điều đó hơn cả. Mọi người đều nghĩ rằng, dù em có đóng cả hai vai cũng không thể chu toàn bổn phận làm con như hồi chị còn tại thế. Bởi đứa em gái của chị mất cha từ thuở lọt lòng đã quen với sự nuông chìu của má và anh chị. Khi chị không còn, em hụt hẫng chơi vơi, nhưng cũng tự đứng lên ngay được vào lúc ấy. Sự cứng rắn đã giúp em vượt qua giai đoạn khó khăn nhất trong cuộc đời mình.

Chị mất chưa bao lâu thì má đi xuất gia rồi thọ sa di giới, cũng trải qua vài ngôi chùa như phần đông người tu mình ở giai đoạn đầu học đạo và hành điệu. Tuổi má đã cao, lại thêm căn bịnh ung thư hành hạ bao năm, thế mà về mặt công phu công quả thì chưa một ngày giải đãi biếng trễ. Khuya thức chúng, bà lên chùa đóng chuông công phu xong thì quét dọn bàn Phật. Sáng sớm sau bữa điểm tâm là má đã có mặt ở ngoài vườn, trồng rau nhổ cỏ dọn củi quét sân, rồi cắt rau xanh vào cho quý cô nấu bữa trưa. Quần quật cả buổi mới vào đóng chuông trưa, cúng ngọ, chiều tối thì công phu tịnh độ không bỏ sót một thời khóa nào. Má cũng siêng lạy sám để nguyện cầu cho Quốc thái dân an, và mấy cô vẫn hay kể với em là má hằng ngày vẫn đọc tên chị khi phục nguyện cầu siêu... lại cầu an cho em nữa đấy.

 Má của mình là vậy đó chị à! Lớn tuổi dù có ham tu nhưng vẫn chưa dứt được tánh cố chấp sĩ diện. Tuy vậy, nhờ má suốt ngày niệm Phật, lại rất mực tin tưởng và trì tụng Đức Bồ Tát Quan âm nên cũng vượt qua mọi bịnh tật khổ hoạn, để vui sống cho đến bây giờ! Hồi mới xuất gia, em gọi má bằng cô theo pháp trong nhà Phật thì bà giận suốt mấy ngày liền. Em không được ở gần bên má để phụng dưỡng bà trong buổi xế chiều, chỉ thỉnh thoảng cùng các cháu ra thăm ở lại vài hôm. Nhưng chị biết đó, má vốn sợ phiền lụy đến con cháu, và cũng chỉ ưa một mình tĩnh tu nên cũng không thích ai đến thăm nhiều. Bây giờ thì má đã yên tu trong chốn Đại Tòng Lâm, và có vẻ bằng lòng với cuộc sống như vậy. Nhờ duyên của chị em mình nên má mới xuất gia. Cũng như ngày xưa, người phụ nữ góa bụa trẻ đẹp phải dắt díu mấy đứa con thơ đi hết chùa này đến chùa khác làm công quả để tránh điều nghi kỵ sàm tiếu của bên chồng cùng những cặp mắt si tình của bao gã đàn ông. Nhờ những tháng ngày bé thơ đuợc ở chùa mà chúng mình thấm mùi đạo rồi phát tâm xuất gia. Đời má đã khổ nhiều. Má chỉ mong ước các cô con gái đi trọn con đường đạo, dứt hết bao mối ràng buộc nơi cảnh duyên trần. Chị thì đã sớm rời bỏ cuộc sống, má và em cũng đang hướng trọn lòng trong ánh đạo yên vui.

 Mười năm vắng xa chị, em mới viết lá thư này. Bao niềm nhớ thương đã theo lẽ thường tình tan biến. Điều đọng lại trong em chính là giây phút được lắng lòng để tưởng nhớ đến chị. Những lúc như thế em mới cảm thấy thật sự an lạcthanh thản hơn cả. Thời gian chị em mình sống bên nhau không lâu, dù cùng chí hướng mà hành điệu ở hai phương trời, chỉ đến khi vào thành phố tu học mới có dịp về chung một ngôi chùa. Vậy mà chỉ được vài năm thì chị mất. Cuộc sống ngắn ngủi của chị, hay niềm hạnh phúc có chị bên đời của em chỉ được bấy nhiêu. Khoảnh khắc gặp gỡ nhau đã trở thành niềm thiên thu bất tận. Những vần thơ khóc chị được em viết qua tâm tưởng. Những vòng hoa bạn bè gởi tặng như một lời kính điếu cho một kiếp tài hoa mệnh bạc. Tất cả rồi cũng qua nhanh. Mười năm hay bao nhiêu năm đi nữa, thì ánh đạo từ bi và niềm tin của em đối với chị vẫn nguyên vẹn như cái thuở chúng ta cùng hiện hữu trên cõi đời này.

 Vậy thôi chị nhé! Em viết thư cho chị chính là muốn nhắc nhở với riêng mình. Dòng đời khác nào con nước chảy xuôi, nhưng lý đạo thì muôn trùng sáng tỏ. Mười năm... biết bao lần em tự hỏi - Phải chăng chị mang tâm hạnh của loài hoa vô ưu nhẹ bước vào đời chỉ để nỡ rộ lên trong khoảnh khắc rồi tan biến vào hư vô. Nhưng dù thế nào thì việc đến đi của đời người trong cuộc thế vẫn có ý nghĩagiá trị riêng của nó. Nơi cõi miên trường chắc chị cũng trải lòng mình đón nhận một mùa xuân thế gian sắp trở về. Khi gió đông tàn thì hương xuân kịp đến, cánh nhạn theo về mặc tình ai ghét... ai thương.

 

 Mùa đông năm 2006

 Thảo Lư 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 918)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1238)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 707)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 678)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 750)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 763)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 744)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 727)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 884)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 770)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 926)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 930)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 854)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 865)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 806)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 953)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 884)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 830)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 916)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 839)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 789)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 891)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 819)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1076)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 853)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 941)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1085)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1560)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1097)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1165)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1042)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 912)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 860)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 889)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 745)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1421)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1295)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1258)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1201)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1326)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1254)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1401)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1280)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1140)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1199)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1248)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1232)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1356)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1252)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant