Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cánh Hạc mùa đông

02 Tháng Mười 201100:00(Xem: 11676)
Cánh Hạc mùa đông

Mùa đông về làm cho ngọn đồi thông thêm rộng thoáng. Không một chiếc lá cây rơi rụng. Không một bóng người lui tới để nghe tiếng bước chân dẫm dài trên đá sỏi. Không gian im vắng và thanh tịnh là thế; vậy mà mấy hôm nay bỗng nhộn nhịp đông đúc hẳn lên. Tiếng đại hồng chung từ ngôi chùa vang xa trầm ấm, đã trở nên một nhịp sống thiêng liêng quen thuộc đối với người dân ở quanh vùng. Du khách thập phương cũng ghé lại nhiều hơn để nghe Sư Ông thuyết pháp và tham quan chiêm ngưỡng mấy ngôi mộ cổ mang tính lịch sử của một thời vua chúa xa xưa.

Chú tiểu nhỏ bước ra sân quét dọn. Trời vẫn còn sớm, đầy sương mù và lạnh căm căm. Chú nhìn sang ngôi tịnh thất nhỏ có hàng chè tàu được cắt tỉa gọn gàng. Sư Ông đã đứng đó tự bao giờ. Người lớn tuổi lắm rồi. Một vẻ gầy gầy xương xương trông bộ đồ nâu bạc cũ, nhưng trông người vẫn còn phong độ qua dáng đi khoẻ mạnh tự tin, qua ánh mắt tinh tường, nụ cười đầm ấm an lạc. Và một giọng nói mang âm sắc nhẹ nhàng truyền cảm đặc biệt của người viễn xứ vừa trở lại Quê nhà sau nhiều năm xa cách.

Thầy đứng đó. Từ khi hồi chuông công phu khuya mới điểm, cho đến lúc hừng đông tỏ rạng, nhuộm thắm cả cánh rừng thông phía trước. Chiếc áo nhật bình khẽ run lên theo làn gió bấc hiu hiu se lạnh. Nhưng Thầy vẫn đứng yên, như sợ khoảng trời đầy riêng tư thơ mộng này vụt trôi nhanh theo tầm mắt. Ở đây lòng người không buồn theo cảnh sắc, mà cảnh sắc đang muốn thu hồn người vào đó. Một chuyến trở về thăm quê mang ý nghĩa nhiều hơn những gì Thầy mong đợi. Hình ảnh ngôi chùa làng còn in đậm nét rêu phong từ thời còn hành điệu. Những dãy nhà ngói, khu phố cổ ẩn mình bên hàng chè tàu mà năm tháng càng phô trương thêm vẻ kiều diễm khuất kín. Bao năm rồi cánh nhạn phong sương tung mây lướt gió. Có biết bao là cảnh đẹp, những kỳ quan vào bực nhứt thiên hạ, những công trình mang tầm cỡ của thiên niên kỷ mới. Vậy mà làng nhỏ quê nhà cứ làm lòng Thầy bâng khuâng náo nức mỗi lần nghĩ đến.

 _ Bạch sư Ông, người choàng thêm chiếc áo khoác vào… kẻo trời còn lạnh lắm.

Thầy quay lại mỉm cười nhìn chú Tiểu, không cảm thấy phiền hà vì dòng tư tưởng bị cắt đứt:

 _ Cám ơn chú. Cái lạnh này chẳng thấm vào đâu so với nhiều nơi thầy đã sống. Thầy muốn tìm lại chút cảm giác thân quen khi trở lại quê nhà đấy mà. 

Không gian bỗng vang lên tiếng hót rộn ràng của muôn loài chim chóc. Những cánh chim mùa đông vẫn tụ về làm tổ trên những cành cây cao. Có lẽ vì đây vẫn còn nguyên sơ cảnh núi rừng yên ổn, chưa bị tàn phá bởi bàn tay con người và cơ chế máy móc. Cả cánh rừng lúc này trông như tấm thảm bạc trải rộng. Một vài khoảng trống vàng nhạt của nền trời xen lẫn tạo nên một khung cảnh hài hoà nên thơ mà dịu ấm. Ôi! Thầy đã từng nhìn thấy nhiều khu rừng thông tuyệt đẹp; những mùa đông đầy tuyết trắng, những đồi cây ẩn hiện trong màn sương bạc mênh mông. Vậy mà những cành thông mộc mạc quê nhà vẫn cứ mang một hồn sắc riêng trong lòng thầy. Nơi toả bóng cho một thời tuổi thơ yên ấm mà ước nguyện thanh cao vời vợi. Nhưng rồi cánh chim xanh lại sớm lìa xa tổ ấm…

Một chiều đông rét buốt. Có đứa bé trai từ vùng duyên hải cát trắng xa xôi xuôi về Thành phố rồi đi ngược ra ngoại ô, dừng chân lại trên ngọn đồi cao khi trời vừa xâm xẩm tối. Cậu bé lần bước lên từng bực thềm đá, tai lắng nghe tiếng tụng kinh trầm trầm vang lên từ ngôi chánh điện. Suốt buổi tối cậu ngồi nép sát vào hiên chùa để cố trốn những cơn gió bấc lùa về, nhưng hàm răng vẫn đánh mạnh vào nhau, bụng đói cồn cào, hai bàn chân sưng rộp và đau nhức. Thời kinh dứt đã lâu. Cánh cửa chánh điện kín mít chỉ toả ra chút ánh sáng tù mù từ mấy ngọn đèn dầu leo lét. Cậu bé vẫn ngồi yên, tợ như đang ngủ gục, cho đến lúc thầy tri khách bước ra sân đóng cổng:

_ A! cậu bé nào ngồi ở đây ri? Trời tối rồi sao không về nhà?

 Thầy dẫn cậu vào bên trong nhà Tổ. Sư trụ trì đang ngồi trên sạp gụ lần chuỗi hạt.

 _ Bạch Ôn… Chú nhỏ này không biết con nhà ai lại đến ngồi ngoài hiên chùa từ chập tối…

mở mắt ra nhìn cậu bé đang ôm bên mình chiếc túi xách nhỏ. Người nhỏ nhẹ cất tiếng hỏi, những hạt chuổi đen tuyền vẫn lướt qua đôi tay gân guốc-:

_ Con từ đâu tới? Bỏ nhà đi phải không?

Cậu bé run run phần vì lo sợ, phần vì lấy làm lạ_ Không hiểu sao Sư Cụ lại đoán biết:_ Dạ bạch Ôn… nhà con ở dưới quê xa. Con muốn đi tu. Xin Ôn cho con được ở lại đây.

_ Cha mẹ con còn không? Làm sao lại biết nơi này?

_ Dạ thưa… Con thích đi tu mà ba mạ không cho, vì con là con trai duy nhất. Tháng trước có một huynh trưởng về quê con sinh hoạt, nói chùa này có nhiều chú điệu đến tu và chỉ dẫn đường đi…

Thầy tri khách tiếp lời:_ Em ngồi co ro bên chái cửa. Con không ra, đến sáng chắc chết rét.

Ôn lặng lẽ ngắm cậu bé, lòng nghĩ ngợi miên man. Thằng nhỏ trông vẻ mặt khôi ngô mà đôn hậu. Vần trán cao với cặp mắt thông thái chứa đầy nhuệ khí, lại có lòng can đảm tánh chất trực đáng quý. Nếu tu được ngày sau ắt sẽ làm lợi ích cho đạo pháp đây_ Về sau Ôn mới nói ra điều suy nghĩ này. Lúc đó người chỉ ôn tồn bảo với thầy tri khách:_ Cậu bé chắc bụng đói lắm rồi, thôi theo thầy tri khách xuống nhà trù dùng cơm. Rồi thầy đưa lên nhà giảng ngủ, nhớ lấy chăn và áo đưa cậu mặc thêm cho ấm. Chuyện gì rồi ngày mai hẳn tính.

Sáng trở dậy Cậu bé ra sân phụ quét dọn và lau chùi bàn ghế. Mấy chú Tiểu thấy người lạ hơi bở ngỡ chốc lát, rồi nhanh chóng làm quen nói cười thân mật như bạn bè thân thiết từ lâu_ con nít mà. Dù có chút rụt rè, nhưng sắc mặt cậu bé cũng tươi tỉnh hớn hở hẳn lên. Cậu đến bên hiên chánh điện, lòng thầm khấn nguyện….

… Sau khi dùng điểm tâm, Sư trụ trì cho gọi cậu bé vào hỏi:

_ Con tên là gì? Vì sao lại trốn nhà đi tu? Hãy nói rõ về gia thế cùng những suy nghĩ của con cho Ôn nghe thử xem. 

_ Bạch Ôn… Con tên Hoà, học lớp sáu trường làng. Con vẫn thường theo các O chú dưới quê đi chùasinh hoạt cùng gia đình Phật Tử. Con muốn được như mấy chú điệu ở chùa tụng kinh làm công quảtu học cho đến ngày giải thoát. Con cũng mong ước sau này khi lớn lên được như quý ôn quý thầy làm những điều lợi ích cho chúng sinh…

Sư cười lớn, khẻ gật đầu nói:_ Khá lắm, Con còn nhỏ mà đã có tư tưởng như vậy. Hãy giữ mãi tâm niệm ban đầu này. Còn bây giờ… theo phép nhà chùa, thì người xuất gia phải có sự đồng ý của gia đình. Vậy con cứ tạm thời ở đây, vài hôm nữa quý thầy sẽ tìm liên lạc cho cha mẹ con biết. Được hay không còn tùy duyên cùng lòng kiên định của con. Thôi con ra ngoài để quý thầy chỉ dạy thêm. À… để Ôn đặt cho con pháp danh là Thuận Nguyên, mong là việc xuất gia tu học của con rồi đây sẽ được thuận buồm nguyên vẹn.

Chú tiểu Thuận Nguyên được xuống tóc để chỏm sau đó không lâu. Chẳng phải êm xuôi gì nhưng vì lòng chân thành mến đạo và kiên quyết của chú bé nên cuối cùng cha mẹ đành chấp thuận gởi con cho sư ông trụ trì. Lúc ấy chùa có mở lớp gia giáo dạy kinh cho chúng điệu nơi bổn tự cùng những chùa lân cận đến xin học. Thuận Nguyên cũng như mấy chú ở chùa vừa được đi học văn hoá ở ngoài vừa học đạo tại chùa. Chú nhỏ tuổi và hiền lành hơn cả, nhưng học hạnh thì cần mẫn thông minh lại khiếm tốn hài hoà, nên sư phụ, quý sư huynh rất yêu mến. Hết bậc trung học, thì chú cũng có chút vốn liếng nội điển cơ bản. Sau đó Sư Phụ cho phép chú cùng nhiều huynh đệ đồng trang lứa thi vào Viện Đại học phật Pháp ở Sài Gòn. Con đường xuôi nam tu học của chú xem ra khá là thuận duyên thẳng tiến.

Tuổi trẻ chứa chan niềm nhiệt huyết, tâm chí cầu đạo toả sáng, học hạnh kiêm ưu, trí năng càng hiển lộ. Thuận Nguyên lại nung nấu biết bao tâm nguyện. Muốn xây dựng một đội ngũ Tăng sinh mang tinh thần nhập thế. Muốn đưa con thuyền đạo pháp vươn đến tận cùng mọi đời sống nhân sinh xã hội. Muốn cải tổ hệ thống giáo dục Tăng Ni v..v. Nhưng Phật Giáo gặp thời pháp nạn, chịu sự kỳ thị và đang không ngừng đấu tranh đổ nhiều xương máu. Với sự năng nổ của vị tăng vừa rời ghế Phật học Viện, nhưng tiềm lực bên trong chưa đủ, trợ lực bên ngoài không mạnh, một định hướng tốt cũng khó được hình thành lúc này.. Ngày xưa Tổ Đạt Ma gặp thời tao loạn mà quyết chí đem đạo pháp truyền sang đông độ. Tổ Huệ Năng thì thọ nhận pháp ấn đi về phương nam hành hoá. Thầy đâu dám ví mình có đạo lực uyên thâmchí hướng cao xa như chư tổ, chỉ ước nguyện một đời xả thân vì đạo vì đời, mong đem ánh sáng chơn lý đạo mầu soi tỏ khắp cùng nhân thế.

Ngày thầy trở về chùa đảnh lễ sư phụ để ra đi, Người vẫn ngồi lần chuổi niệm Phật trên bộ phản giữa nhà tổ, mắt hướng về mấy chậu cúc vạn thọ nơi bục cửa. Mùa xuân còn bỏ ngỏ mà lòng người đã sẵn sàng ra đi. Thầy nhớ mãi ánh mắt từ hoà thương cảm khi Sư Phụ nhìn mình như nhìn chú bé ngày đầu tiên tay ôm bọc áo quần đến chùa xin ở lại tu. Những lời nói của Sư phụ ngày ấy, thầy đã mang theo trên mọi bước đường du phương hoằng hóa.

_ “Khi Sư Phụ nhìn vào đôi mắt thông minh cương nghị của chú bé mới vào chùa đã đoán được phần nào. Rồi đây chú sẽ làm nhiều lợi đạo ích đời. Rồi đây chú sẽ mang chí nguyện vươn xa khắp mọi chân trời. Nay chính là lúc con phải ra đi rồi. Thầy chỉ có mấy lời, là mong con luôn giữ vững tâm nguyện xuất gia ban đầu. Đạo tâm vững, chí nguyện sâu thì dù ở đâu cũng có thể hoằng pháp lợi sanh. Đi xa, cũng là dịp tốt để con có tầm nhìn rộng thoáng và thiết thực, từ đó sẽ có định hướng đúng đắn, sẽ kiến tạo nên một sự nghiệp lớn, phù hợp với màu áo và tâm hạnh của người xuất gia…”

 ˜ ] ™

Chuyến ra đi ngày ấy, chỉ dự kiến một thời gian. Ai ngờ… phải mất gần non nửa thế kỷ Thầy mới có dịp trở về thăm lại quê hương. Vị Bổn Sư khả kính đã viên tịch. Ngôi chùa Tổ cổ kín theo thời gian vẫn yên vị trên ngọn đồi thông lộng gió. Các vị sư huynh sư đệ người còn người mất, ai đến ai đi chắc cũng thấu hiểu sự trở về mang đầy ý hướng tốt đẹp của Thầy. Một đời vân du trong cõi người ta, những nơi Thầy đi qua đã trở thành niềm ký ức khó quên cho lòng người khi đến. Nhiều nơi đã trở thành trung tâm Phật giáo quy tụ nhiều tín đồ học Phật đầy đủ mọi màu da chủng tộc. Nhưng điều thầy đạt được hơn cả là không đánh mất niềm tin cùng sự kỳ vọng của thầy tổ huynh đệ, của bao thế hệ người đã và đang tận lực hy sinh cho đạo pháp và dân tộc này.

Hơn nửa đời người làm thân lữ thứ, Thầy luôn tự ví mình như cảnh chim Việt cành Nam. Con người ta… ai chẳng một quê hương để nhớ tưởng, để quay về khi xế chiều lặn bóng. Quê hương Thầy là đây; là nơi trở về trong tâm thức có ánh đạo từ quang soi sáng. Quê Hương này từ lâu đã sống trong cảnh thanh bình yên ấm. Đạo pháp vẫn mãi trường tồn trong lòng dân tộc. Bao ước nguyện một thời của vị Tăng sinh trẻ nay gần như đã được hình thành. Ngày trở về… Thầy những mong góp chút hạnh nguyện cuối đời cho sự phát triển đạo pháp nơi quê nhà. Cánh buồm xưa đã xuôi về bến cũ.

Thầy bước lần ra sân… cùng đến chấp tác với chúng điệu, góp thêm nắm đất vun cho mấy chậu hoa đang kết nhuỵ. Những vẻ mặt hồn nhiên tươi tắn trong bộ đồ bạc thếch lấm tấm mồ hôi bùn đất. Có ai đó vừa nhìn thấy hình ảnh ngày nào của chú tiểu Thuận Nguyên. Bên thềm đá sỏi vẫn còn in rõ dấu chân nai một thời thơ dại. Vài cánh chim Hạc vừa bay qua nền trời. Mùa xuân sắp về rồi. Chim Hạc ắt hẳn cũng muốn quay về… với nơi chốn bình yên muôn thuở.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1486)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 1932)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1762)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 1887)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1478)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2063)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1433)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1672)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1583)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1649)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1472)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2219)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 1906)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 1853)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1687)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2002)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1620)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1764)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 1973)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1512)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1756)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1727)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 1971)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1745)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1602)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1572)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1588)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1674)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 1955)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1542)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1502)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2025)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1783)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1590)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2131)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1781)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 1856)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2052)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2320)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2350)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 1883)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2324)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1690)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1717)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2053)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2581)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1474)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1442)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1596)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1431)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant