Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những cánh hoa mùa hạ

02 Tháng Mười 201100:00(Xem: 13425)
Những cánh hoa mùa hạ

 Nói đến mùa hạ, người ta thường nghĩ về hoa sen. Một loài hoa mang nhiều tố chất đặc thù mà ít loài hoa nào có được. Bởi hoa sen vốn sinh ra không phải dùng để trang điểm cho những vẻ đẹp ủy mị thường tình, mà hoa sen được biết đến bởi tính chất vô nhiễm “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Một loài hoa vừa mang hương thơm lại có sắc đẹp, ẩn chứa diệu mầu hai cõi sắc không. Bình thường ai cũng quý trọng loài hoa trong chốn bùn lầy này. Hoa còn mang ý nghĩa chỉ cho trái tim người (nhục đoàn tâm), biểu thị tâm thể nhứt như thanh tịnh vô ngần.

Là loài hoa sanh trưởng nơi vùng nhiệt đới, nhờ kết hợp nắng mưa vào hạ mà trổ nhụy ra hoa. Do đó sắc hoa sen luôn tươi nhuần, hương hoa thì thanh nhã dịu dàng mà lan tỏa. Sắc hương của sen đã từng ngự trị ở miền quê hương tịnh lạc. Nhưng trong mọi góc cạnh cuộc sống, hoa sen vẫn có chỗ đứng riêng. Mang ảnh tượng từ cõi nhân gian, hoa thanh thoát tự tại vươn lên không chút vướng nhiễm bụi trần.

Đức Thế Tôn khi còn tại thế cũng thường lấy hoa sen làm thí dụ trong những bài thuyết giảng, ngầm ý chỉ cho đời sống thanh cao thoát tục của hàng tăng lữ. Nghĩ về hoa sen, ta liên tưởng đến mùa hạ. Vì đây là mùa an cư kiết hạ. Mùa tu tập định kỳ cho Tăng chúng Phật giáo trên khắp hoàn cầu( trừ các vùng Bắc cực tại các xứ Âu Mỹ, Tăng chúng lại an cư vào mùa đông, mùa cực lạnh lại đầy mưa tuyết. Gọi là mùa kiết đông). Nhìn chung, thì Phật giáo ở hai vùng đông tây có nhiều điểm dị biệt về phương thức tổ chức, cũng như về khái niệm tu tập hoằng dương chánh pháp. Nhưng sự thể hiện chân ý đạo mầu vẫn không nằm ngoài giới luật của Phật, vẫn dựa trên nền tảng tam vô lậu học để khắc chế nội tâm và vun bồi đạo hạnh cho người xuất thế.

 Ngoài vẻ đẹp thuần túy, hoa sen còn nêu rõ đặc tính khi hoa nở thì gương hạt nhụy cánh đều đầy đủ trong cùng một lúc. “Nhân quả đồng thời tỏa hiện” là ý ẩn dụđức Thế Tôn thường nêu ra trong các bộ kinh đại thừa, nói lên thể tánh chân như đồng nhất của chư Phật cùng tất cả chúng sanh. Phật đã từ ngôi nhà thế gian tu tập thành chánh giác. Chúng sanh thì còn mãi đắm mê trong nhà lửa tam giới, chẳng khác nào như cánh sen còn nằm sâu nơi chốn bùn lầy, phải chờ nhân duyên hội tụ cùng sự nỗ lực của tự thân. Hình ảnh hoa sen với hương sắc dịu dàng tinh tế, ngầm ý chỉ cho tâm bồ đề thanh tịnh của chúng sanh luôn sẵn có. Dù bị lưu chuyển qua bao kiếp trần nhưng tâm bồ đề ấy không hề bị hoen ố mai một.

Như vậy, hoa sen nghiễm nhiên trở thành biểu tượng cao đẹp cho hành giả tu tập Phật thừa. Và mùa hạ cũng là mùa trổ hoa phước trí cho người con Phật. “Bao nhiêu công đức vô biên, đều do hạ lạp cần chuyên tháng ngày”. Màu hoa trong mùa hạ lạp được toả sáng trên mỗi mảnh y ca sa, trên những bước chân người tìm về cảnh Phật. Hoa phước trí nở rộ trong đạo tràng qua mỗi mùa hạ lạp đã nói lên được truyền thống tốt đẹp luôn được truyền thừa tiếp nối. Mỗi ngôi trường hạ là một khu vườn trí huệ ươm mầm cho hạt giống bồ đề tăng trưởng. Mỗi mùa hạ là mỗi mùa công đức tuổi lạp được vun bồi. Mùa hạ ở vùng nhiệt đới lại là mùa mưa lũ. Mùa chúng côn trùng sanh sôi nảy nở. Vì thế mà Đức Bổn Sư của chúng ta đã lập ra mùa kiết hạ tạo duyên cho hàng tín chủ làm công đức cúng dường, hộ trì cho chúng Tăng tịnh tu trong ba tháng, tránh đi lại làm di hại đến các loài sanh chủng. Phật giáo nguyên thủy mang đậm hình thức hoà hợp chúng, nêu cao tính đoàn thể tự tu tự chứng. Tăng đoàn hoà hợp nhờ luôn thể hiện tính tự giác cao độ. Và hơn hết là biết lấy giới luật làm áo giáp kiên cố, lấy tinh tấn để huân sâu thêm đạo nghiệp và lấy định huệ để thắp sáng tự tâm.

 Mùa hạ.. mùa của những cánh sen hồng trắng đua nở, cũng sẽ đưa chúng ta tìm về bên những ngôi trường hạ. Ở đây ta được tận mắt nhìn thấy những sắc vàng y rực rỡ như những cánh sen tuyệt tác của người tu sĩ. Tất cả dường như đang hiện hữu nơi đây, đang thực sự trở về một thời hoằng hoá nơi Kỳ Viên Tịnh Xá. Những ngôi trường hạ bây giờ, dù không mang đậm sắc thái tu chứng như thời chư vị thánh nhơn, nhưng vẫn giữ được mọi nếp sống trang nghiêm trong một không gian đầy đạo vị. Đây là những môi trường tu học vừa mang tính truyền thống thanh cao, lại vừa khế hợp với Đạo Pháp – Dân tộc ngay thời đương đại hết sức sinh động hài hoà. Chính nhờ giữ được những ý nghĩa đó, mà mỗi năm các ngôi trường hạ lại ra đời, thu hút các tăng ni sinh trẻ nương về tu học. Mỗi năm ba tháng tịnh tu, mỗi mùa hạ là sẽ tạo cơ duyên cho những cành liên hoa đơm bông nở rộ, đem lại bao sức sống diệu kì cho nhân tâm - thế đạo.

Chúng sanh vô biên, pháp môn vô lượng. Sự tu tập của hành giả cũng phải trải qua bao A tăng kỳ kiếp mới thành tựu viên mãn. Trong suốt cuộc hành trình đạo hóa nhân sinh, hành giả đôi khi bỏ quên chính mình, bỏ quên hạt minh châu luôn tỏa sáng trong tâm thức. Ba tháng hạ chính là thời gian thích hợp để Tăng chúng ngồi lại kiểm thúc thân tâm trong mỗi ý tưởng hành động cụ thể. Tránh đi lại và cũng tạo cơ duyên cho chúng sanh cùng tịnh tu phước huệ. Có thể nói đây là giai đoạn tu nhân của Bồ Tát mang tâm hạnh vị tha vô ngã. Hoa sen trong biển lửa khi vươn ra khỏi đầm lầy thì sắc hương càng lan tỏa.

Trong cuộc hành trình tìm lại chính mình, mỗi bông hoa mùa hạhiện thân cho một giai đoạn tu chứng nơi tự tâm; Mỗi cánh sen vàng là một hoá thân Phật trụ trì Tam BảoThế gian. Mùi hương của loài hoa bất nhiễm lan xa như muốn góp sức mình trong công cuộc xây dựng một thế giới Cực Lạc an vui ngay hiện tại.

“Hương của hoa giải thoát,

ngược gió bay khắp nơi”.

Trong cảnh sanh diệt, chỉ có người biết trang trải cho đời bằng những giá trị thanh cao để trở thành những đoá sen vàng rực rỡ không bao giờ mất, không bao giờ tàn. Cành lá vô ưu vươn lên từ nơi mảnh đất bụi trần tăm tối. Trong chốn đầm lầy, những cánh hoa mùa hạ biết trang trải cho đời qua mùi hương bất diệt.

Những cánh hoa mùa hạ, những sắc màu luôn toả sáng trong mỗi mùa kiết hạ an cư. Rồi đây hương của người đức hạnh cũng theo chiều gió ngược bay xa.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1081)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1262)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 991)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1327)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 781)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 748)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 800)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 818)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 790)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 777)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 932)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 819)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 976)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 987)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 915)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 917)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 843)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1000)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 943)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 888)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 979)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 893)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 839)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 945)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 872)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1134)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 901)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 999)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1133)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1600)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1151)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1241)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1102)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 960)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 908)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 947)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 791)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1349)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1320)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1257)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1362)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1317)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1460)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1340)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1194)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1245)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1311)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1293)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant