Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cánh hạc non ngàn

02 Tháng Mười 201100:00(Xem: 12157)
Cánh hạc non ngàn
Nắng lên cao. Nắng chiếu ngút ngàn quanh các triền núi hoang vu, làm khô ráo mấy hạt sương mai còn đọng lại trên những ngọn cây. Càng đi lên, không khí càng thoáng đãng hơn; Nhưng đường núi dốc đứng hiểm trở cùng với cái nắng nóng đã làm cho đoàn người hành hương bắt đầu thấm mệt. Từ xa, họ đã nhìn thấy một mái am tranh bé nhỏ đứng chơ vơ giữa lưng chừng núi. Cảnh trí tĩnh lặng, cũng khiến lòng người trở nên thanh thản dễ chịu đôi chút. Từng bước chân nhanh nhẹn lại thoăn thoắt vượt qua những tảng đá cheo leo nằm vắt vẻo ngang bên bờ suối lạnh .

Sư cô Tịnh Thủy chậm rãi bước ra sân, đứng chần chừ giây lát, rồi ngồi xuống nhổ cỏ quanh mấy bụi hoa kiểng. Sáng nay, Sư Cô định lên đỉnh núi tìm hái một ít lá cây đem về làm thuốc cho bà con trong làng. Nguyên ngày hôm qua và cả sáng nay, tiếng chim khách cứ hót vang bên hiên tịnh thất. Sư Cô nghĩ… thế nào cũng có khách đến viếng thăm đây. Có thể là mấy chú công an biên phòng. Vì đây là vùng núi chiến lược nằm gần biên giới, nên Nhà Nước nghiêm cấm không cho dân đến làm nhà hay khai khẩn trồng trọt. Ấy vậy mà… hơn mười năm trước có một vị Sư Cô còn rất trẻ, một thân một mình dám lên đây lập am để ẩn tu. Mấy lần công an đã phải lên mời và ép buộc Sư Cô xuống núi. Nhưng sau này vì Sư Cô cứ bướng bỉnh trở lên và thấy cũng không di hại gì nên họ tảng lờ không làm khó dễ nữa. Và cũng kể từ đó, không biết tiếng đồn như thế nào mà thỉnh thoảng lại có đoàn du khách tìm đến vãng cảnh thăm chùa.

Ở chốn rừng hoang núi thẳm này, xưa nay ít có dấu chân người lai vãng. Không hẳn là vùng trọng điểm nhạy bén của Quốc Gia. Mà do đây chẳng phải là nơi danh lam thắng cảnh nổi tiếng gì. Làng mạc dân cư thưa thớt cũng cách xa nơi này khoảng dăm ba cây số. Đường núi gập ghềnh. Ban ngày thì nóng bức khô khan. Ban đêm thì lạnh buốt ẩm thấp. Nhưng… đáng sợ hơn cả vẫn là loài độc xà luôn quanh quẩn trong các lùm cây bụi cỏ. Có lần, vào lúc đêm khuya trăng thanh gió mát, sư cô ngồi toạ thiền trên một tảng đá ngoài sân thì một chú rắn Lục bò tới nằm khoanh tròn bên dưới. Khi xả thiền Sư cô chợt nhìn thấy nó. Người chú nguyện… một lúc sau thì con rắn bò đi. Có người hỏi:

_Sư Cô không sợ Rắn sao?

_Lúc đầu có sợ. Sau rồi cũng quen dần. Mình chú ý không đụng chạm gì đến nó thì thôi. Mà dường như Rắn cũng biết nghe kinh đấy. Nhiều lần tôi đang tụng kinh thì có con Rắn bò vào nằm ngay ngạch cửa. Thời kinh vừa xong thì nó bò đi mất. Nghe cứ như chuyện từ thời các vị Thiền Sư ngày xưa, nhưng đó là sự thật.

Cuộc sống thanh bần ẩn dật như cánh hoa rừng khiêm tốn đơn điệu, nhưng tâm hồn của sư cô không rời xa hẳn với thế giới bên ngoài. Cánh hạc giữa chốn đại ngàn thỉnh thoảng vẫn hoà nhập với những người dân lam lũ sống rải rác dưới chân núi. Những người đau bịnh thường hay lên nhờ sư cô tìm thuốc. Sư cô phải lặn lội leo lên đỉnh núi hái các loại cỏ thuốc đem về phơi khô cho họ. Sư cô cũng hay giúp mọi người một vài chuyện vặt vãnh khác. Có khi an ủi hoặc lắng nghe họ giải bày những điều buồn vui trong đời sống. Một lần có người phật tử từ xa nghe nói liền tìm đến thăm. Thấy thảo am đơn bạc không có gì, người ấy bèn cúng dường cho sư cô một ít tiền để chi dụng. Hôm sau Sư Cô xuống chợ mua gạo nấm khoai về nấu một nồi cháo lớn, rồi đi mời hết bà con trong xóm đến ăn. Gạo tiền còn dư chút ít, Sư cô cũng phân phát hết cho người nghèo. “-Đời tu hành tri túc đạm bạc cần chi phải giữ gạo tiền nhiều”. Sư cô bảo với mọi người như vậy.

. . . Khi đoàn hành hương lên đến nơi thì ánh nắng đã chan hoà khắp cả núi rừng. Mọi người tản ra đến bên những gốc cây ngồi nghỉ mệt và nhìn ngắm những mảng cây xanh đang trải dài trước mắt. Sư cô đem ấm nước lá vối và vài món cây nhà lá vườn ra đãi khách. Chủ khách sau vài tách trà ấm bụng đã trở nên cởi mở.

Mọi người ngồi xung quanh cùng nói chuyện với Sư cô. Một vị cao niên và có vẻ am hiểu Đạo Pháp cất tiếng hỏi :_Đức Phật từng dạy :-Phật pháp là bất ly thế gian pháp. Sư cô quả thật là người có đầy đủ dõng lực, xa lánh duyên đời. Thế nhưng lại sống quá tách biệt thế này thì sao gọi là làm lợi lạc quần sanh. Như vậy chẳng phải là trái lời Phật dạy mà cũng trái với tâm nguyện của người xuất gia sao?

- Dạ vâng !_Sư cô từ tốn trả lời_Theo lý thì như vậy. Nhưng Phật Pháp vô lượng. Mỗi người đều có tâm niệmhạnh nguyện khác nhau. Khi Phật còn tại thế cũng đâu cấm chúng đệ tử vào trong rừng sâu tu tham thiền nhập định. Thời xưa và cả thời nay, các bậc cao minh thạc đức trong Phật pháp không phải ít. Người có năng lực trí huệ cũng nhiều. Chư vị đều vì tiền đồ của đạo Pháp, vì hạnh phúc an vui cho chúng sanhxả thân bất vụ lợi. Như vậy thì đâu hẳn là nơi phố thị đông đúc hay phải làm điều gì to tát mới gọi là báo Phật độ sanh. Tâm nguyện của tôi là thích chuyên tu, hơn nữa đã quen sống nơi thôn dã bình yên tĩnh lặng này, chứ nào phải muốn làm kẻ lập dị khác đời. Với nhân sinh tôi vẫn mong làm điều gì lợi ích theo năng lực của mình. Thân tuy sống xa cách nhưng lòng tôi không hề xa cách….

 -Thưa sư cô! Các tỉnh thành bây giờ đều có mở trường Phật Học. Những vị tăng ni sinh trẻ thích tìm về các ngôi trường lớn trong thành phố hoặc có vị sang tận nước ngoài du học. Ai cũng vì mục đích phụng sự đạo pháp, nhân sinhcần cầu sự tiến đạt trong sự nghiệp tu học. Sư cô sống ẩn dật như vậy chẳng hoá ra là người chán đời trốn đời sao?

 Sư cô mỉm cười :_Với tâm nguyện xuất gia ban đầu, tôi cũng muốn theo học một ngôi trường Phật học nào đó. Nhưng rồi nhân duyên đưa đẩy, tôi về đây và cũng tìm thấy niềm an lạc trong đời sống tu hành. Phật cũng dạy: “Tuỳ theo trụ xứ thường an lạc”. Tuỳ theo hoàn cảnhhoàn thiện pháp môn tu học cùng phẩm hạnh của người xuất gia, thì đó cũng vừa là tự lợi và góp phần làm lợi ích cho xã hội rồi…

 Những lời hỏi han gần như chất vấn, nhưng ai nấy đều bày tỏ lòng cảm kích và ngưỡng mộ trước ý chínghị lực của Sư Cô. Họ đến đây không chỉ để tham quan. Không hẳn vì lòng hiếu kỳ. Mà phát xuất từ một niềm tin; vì sự kính phục trước một con người đã lìa xa chốn bụi hồng lại không màng tìm kiếm chút danh tiếng theo cái học vị đương thời. Một đời an bần lạc đạo, sống thanh cao giữa chốn núi rừng, mà không rời tâm niệm vị tha, làm lợi ích cho nhân quần.

 

 íííííí

 Sau buổi toạ đàm, đoàn hành hương được sư cô thết đãi một bữa cơm chay đạm bạc và ngồi nghe người nói chuyện. Suốt buổi trưa, Sư Cô dẫn đoàn đi tham quan một vài cảnh trí quanh thiền thất. Rồi sau đó tất cả vội từ giã Sư Cô xuống núi khi nắng chiều dần buông.

 Một chuyến đi xa. Một cuộc hành trình nhiều thú vị, ít ra họ cũng tận mắt nhìn thấy bao cảnh quan sông núi hữu tình. Rừng núi luôn bao trùm những điều kỳ diệu mà chỉ những ai từng chung sống, từng trải lòng mình với muôn sinh nơi này mới cảm nhận hết được. Nắng chiều vừa lịm tắt sau chân núi, thì đoàn viễn khách cũng vội vã trở về xuôi, mang theo cả niềm tin tưởng lạc quan vào cuộc sống, với những gì nình đã thấy đã nghe.

 Tiễn khách xong, Sư cô Tịnh Thuỷ lại bước lên một trụ đá ngồi thiền. Một ngày nữa lại trôi qua. Nhưng mọi sự việc và khái niệm thời gian ở đây nào có nghĩa gì… khi lòng người đã thật sự tìm thấy niềm an lạc vô biên trong ánh đạo. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 785)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 752)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 686)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 718)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 768)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 704)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 744)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 795)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 937)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1408)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 956)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 993)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 749)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 763)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 625)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1292)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1170)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1198)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1142)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1227)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1153)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1034)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1155)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1125)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1239)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1133)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1207)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1195)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1173)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1157)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1748)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1147)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1175)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1288)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1173)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant