Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chuyện tiền thân: Bùn nào làm uế được pha lê!

30 Tháng Mười 201000:00(Xem: 11976)
Chuyện tiền thân: Bùn nào làm uế được pha lê!


Tại tịnh xá Kỳ Viên, đức Thế Tôn kể câu chuyện về việc các tu sĩ ngoại đạo đã thuê người sát hại cô Tôn-đà-lợi (Sundarī).

Thời bấy giờ, dân chúng rất kính trọng đức Phật. Sự kính trọng này giống như năm con sông đổ vào đại dương. Những tu sĩ ngoại đạo nhận thấy rằng lợi lộc và lòng tôn kính không còn đến với họ nữa, nên tập họp lại và cùng nhau bàn bạc:

– Thưa huynh đệ, từ khi Sa môn Cù Đàm (Gotama) xuất hiện, chúng ta không còn nhận được lợi lộc và dân chúng không còn kính trọng chúng ta nữa, chẳng còn một ai biết đến sự có mặt của chúng ta. Ai sẽ là người giúp chúng ta sĩ nhục Sa môn Cù Đàm, và khiến cho dân chúng đừng cúng dườngkính trọng ông ta nữa?

Rồi họ đã nghĩ ra, “Tôn-đà-lợi là người có thể giúp chúng ta thực hiện việc này”.

Vì thế một hôm, khi Tôn-đà-lợi đến thăm khu rừng những vị ngoại đạo cư trú, những vị ngoại đạo gật đầu chào cô nhưng ngậm thinh không nói một lời nào. Cô ta hỏi đi hỏi lại nhiều lần, nhưng không một ai trả lời. Cô hỏi tiếp:

– Thưa các thầy, có điều gì làm cho các thầy bực mình chăng?

Họ nói:

– Này chị, chị không nhìn thấy Sa môn Cù Đàm quấy rầy chúng tôi, tước đi phẩm vật cúng dườngthanh danh của chúng tôi ư?

– Vậy con có thể làm gì để giúp các thầy đây? Cô ta hỏi.

– Này chị, chị xinh đẹp và đáng yêu. Chị có thể làm nhục Sa môn Cù Đàm, lời nói của chị có thể tác động đến rất nhiều người. Nếu ông ta bị hạ nhục, thì chúng tôi có thể nhận lại được lợi lộcthanh danh của mình.

Cô ta đồng ý rồi ra về. Sau đó, cô ta thường mang hoa, dầu thơm, long não, gia vị và trái cây; đợi đến chiều tối, lúc đám đông sau khi nghe đức Thế Tôn thuyết pháp xong và trên đường trở vào kinh thành, cô ta hướng mặt đi đến tinh xá Kỳ Viên. Nếu có ai hỏi cô đang đi đâu, cô ta nói:

– Tôi đang đi đến chỗ Sa môn Cù Đàm, và tôi sẽ ở lại đấy với ông ấy trong một hương phòng.

Sau đó, cô nghỉ qua đêm ở chỗ những tu sĩ ngoại đạo, vào buổi sáng cô ta lại trở về theo con đường từ tinh xá Kỳ Viên vào kinh thành. Nếu có ai hỏi cô ta đi đâu về, cô ta trả lời:

– Tôi đã ở với Sa môn Cù Đàm trong một hương phòng, và ông ấy đã làm tình với tôi.

Một vài ngày sau, những vị ngoại đạo thuê một vài tên côn đồ giết chết Tôn-đà-lợi trước phòng đức Phật và ném xác cô ta vào trong đống rác. Rồi họ lại rêu rao tìm kiếm Tôn-đà-lợi, và trình báo với nhà vua. Nhà vua yêu cầu họ chỉ ra nơi họ nghi vấn. Họ trả lời rằng trước đây một vài ngày cô ta có đi đến tịnh xá Kỳ Viên, nhưng họ không biết những gì xảy ra sau đó. Nhà vua bảo họ đến đó tìm kiếm cô ta. Được phép thế, họ dẫn theo những người hầu của nhà vua, và đi đến Kỳ Viên. Ở đấy, họ lùng sục khắp nơi cho đến khi họ tìm thấy xác Tôn-đà-lợi ở trong đống rác. Bảo mang đến một cái cáng, họ đưa xác cô ta vào kinh thành, tâu với nhà vua rằng những đệ tử của Sa môn Cù Đàm đã giết chết Tôn-đà-lợi và ném cô ta vào trong đống rác để che đậy tội lỗi đấng Đạo Sư của họ. Nhà vua bảo họ đi khắp kinh thành thông báo việc này. Họ đi khắp các đường phố rêu rao:

– Xin hãy đến xem những gì mà những Sa môn Thích tử đã làm.

Rêu rao xong, họ quay lại cổng cung điện. Nhà vua đặt xác Tôn-đà-lợi trên một cái bệ, rồi cho mang vào nghĩa địa canh giữ. Trừ các Tỳ-kheo ra, còn tất cả dân chúng đi khắp trong thành, ngoài thành, khắp công viên, rừng cây, lăng mạ sĩ nhục các Tỳ-kheo và la lớn:

– Xin đến xem những gì mà những Sa môn Thích tử đã làm.

Chư Tỳ-kheo bạch lại tất cả sự việc này lên đức Thế Tôn. Ngài nói:

– Thôi được, các thầy hãy đến quở trách những người này bằng lời sau:

Người thích nói dối đọa địa ngục

Người làm, bảo không có khác chi.

Hai hạng người này khi bỏ mạng

Sanh vào cõi ác không hồ nghi.

Sau đó, nhà vua ra lệnh cho một vài người đi điều tra xem người nào đã giết phải Tôn-đà-lợi. Bấy giờ, những tên vô lại đang ngồi uống rượu bằng đồng tiền vấy máu và tranh cãi với nhau. Một tên nói với một tên khác:

– Mày đã giết Tôn-đà-lợi bằng một cú đánh, rồi ném xác cô ta vào trong đống rác, giờ đây mày lại mua rượu bằng đồng tiền vấy máu đó!

– Đúng đây rồi, đúng những tên này rồi.

Những sứ giả của nhà vua nói và bắt lấy những tên côn đồ, kéo chúng đến trước nhà vua. Nhà vua hỏi:

– Có phải các ngươi đã giết cô ta không?

– Thưa đại vương, chúng con đã làm việc đó. Họ trả lời.

– Ai bảo các ngươi làm?

– Tâu đại vương, những tu sĩ ngoại đạo.

Nhà vua cho gọi những tu sĩ ngoại đạo đến. Ông bảo: – Hãy nhấc Tôn-đà-lợi lên và mang cô ta đi quanh kinh thành, khi các ngươi đi hãy hô to: Cô Tôn-đà-lợi muốn làm nhục Sa môn Cù Đàm, chúng tôi đã giết cô ta; tội lỗi này không phải của Sa môn Cù Đàm, cũng không phải của những đệ tử ông ấy; tội lỗi này là của chúng tôi!

Họ làm theo như vậy. Quần chúng mê mờ trở lại tin tưởng đức Phật. Còn những vị ngoại đạo không còn làm điều ác nữa, do phải nhận lấy sự trừng phạt vì tội sát hại. Từ đó về sau, thanh danh của đức Phật ngày càng trở nên rộng lớn. Rồi một ngày nọ, chư Tỳ-kheo bắt đầu đàm luận việc này trong Chánh pháp đường:

– Thưa các Hiền hữu, những tu sĩ ngoại đạo muốn bôi nhọ đức Phật, và rồi chính họ tự bôi nhọ lấy mình. Từ đó, lợi lộcthanh danh của chúng ta được gia tăng!

Đức Thế Tôn đi vào và hỏi họ đang bàn luận việc gì? Họ bạch sự việc với Ngài. Ngài nói:

– Này các Tỳ-kheo, để làm nhơ uế Thế Tôn là điều không thể. Cố gắng làm nhơ uế Thế Tôn thì cũng giống như cố làm nhơ uế một viên bảo ngọc. Vào đời quá khứ, người ta muốn làm nhơ uế một viên ngọc đẹp, và họ có cố thế nào cũng không thể làm được, nên đành chịu thất bại.

Và rồi, Ngài kể cho họ một câu chuyện đời quá khứ.

* * *

Thuở xưa, khi Phạm Dự (Brahmadatta) là vua nước Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh vào trong một gia đình Bà-la-môn. Khi Ngài trưởng thành, nhận thức được nỗi khổ đau phát sanh từ tham ái, Ngài đã rời bỏ gia đình sống đời sống xuất gia. Sau khi vượt qua ba rặng núi của dãy Tuyết Sơn, đến đấy, Ngài xuất gia làm ẩn sĩ, sống trong một thảo am.

Gần thảo am của Ngài có một hang động pha lê, có ba mươi con heo rừng sống trong ấy. Gần hang động, có một con sư tử thường hay qua lại và cái bóng của nó phản chiếu trong pha lê. Những con heo rừng thấy cái bóng phản chiếu này sinh sợ hãi nên trở thành gầy còm, xanh xao. Chúng nghĩ, “sở dĩ chúng ta thấy cái bóng phản chiếu này bởi vì lớp pha lê quá sáng. Chúng ta hãy làm dơ bẩn và uế màu nó đi.” Vì thế, chúng lấy một ít bùn từ một cái hồ gần đó và chà xát mãi lên lớp pha lê. Nhưng pha lê, được lớp lông cứng của những con heo chà xát càng trở nên sáng bóng hơn.

Chúng không biết xoay xở ra làm sao nên quyết định đến hỏi ẩn sĩ, làm cách nào chúng có thể làm dơ bẩn được lớp pha lê. Sau khi đi đến vị ẩn sĩ, chúng cung kính chào hỏi, rồi ngồi xuống một bên và đọc lên hai bài kệ:

Ba mươi chúng tôi bảy năm nay

Sống trong hang động pha lê này.

Giờ cố làm mờ đi ánh sáng

Nhưng chúng tôi đành chịu bó tay.

chúng tôi đây dốc hết sức

Làm mờ ánh sáng pha lê đi.

Pha lê vẫn tỏa ánh sáng rực,

Nguyên nhân có thể là do gì?

Bồ-tát lắng nghe, sau đó Ngài đọc lên bài kệ thứ ba:

Pha lê quý giá, không tì vết

Sáng rực, trong suốt; đâu phải gương.

Ánh sáng của nó mãi chắc thật

Không có vật gì làm tổn thương.

Này những bạn heo, tốt nhất hãy

Chọn lấy nơi khác mà náu nương.

Chúng đã làm như vậy khi nghe câu trả lời này. Rồi Bồ-tát trú sâu trong thiền định, và sau đó sanh về thế giới Phạm Thiên.

* * *

Sau khi kết thúc pháp ngữ này, đức Thế Tôn nhận diện Tiền Thân:

Vào thuở ấy, Ta chính là vị ẩn sĩ.

 

(*) Tiền Thân Maṇisūkara, số 285, bản Anh ngữ.

Lời bàn:

Trong cuộc sống, không phải lúc nào chúng ta cũng gặp được những điều an ổn, gặp được những người tốt, sẵn lòng thương yêu và giúp đỡ. Bên cạnh những người thương yêuquý mến, vẫn có những người luôn ghanh ghét, đố kỵ, tìm cách vu khống, bôi nhọ và hãm hại chúng ta. Điều đó là lẽ thường tình trong cuộc sống, bởi lẽ sống giữa đời này khó tìm ra người hoàn toàn được thương yêu mà không bị ganh ghét. Vì thế trong cuộc sống, chúng ta đừng mong rằng tất cả mọi người sẽ luôn yêu thươngquý trọng chúng ta, mà chúng ta phải làm sao tự hoàn thiện lấy bản thân, sống như thế nào đó để khi đối mặt với những ghanh ghét, vu khống… chúng ta vẫn có được một thái độ tỉnh táo, bình thản, sẵn sàng đón nhận và chuyển hóakhông sinh lòng oán trách, thù hận.

Cuộc đời của đức Phật là tấm gương sáng, phản chiếu rất rõ phẩm hạnh này. Trong sự nghiệp hoằng pháp độ sanh, đức Phật gặp rất nhiều chướng ngại, đối mặt với không ít những lời sỉ nhục, vu khống, bôi nhọ… Nhưng đứng trước những trường hợp như vậy, Ngài luôn thể hiện một thái độ bình thản, sẵn sàng đón nhận như là cái tất yếu phải có; không dao động sợ hãi, không oán hận trả thù. Ngài bình thản đón nhận vì tin rằng: “Kẻ ác hại người hiền chẳng khác nào ngước lên trời phun nước miếng, nước miếng chẳng đến trời mà trở lại rơi nhằm vào mình. Ngược gió tung bụi, bụi chẳng đến người mà trở lại dính vào thân. Người hiền không thể hại được mà họa ắt mình phải chịu”.1

câu chuyện này, một lần nữa chúng ta lại nhận thấy điều ấy.

Những tu sĩ ngoại đạomục đích lợi lộc và muốn được dân chúng tôn kính nên đã bày mưu bôi nhọ thanh danh đức Phật. Đức Phật bình thản đón nhận và tin rằng chính những kẻ vu khống kia sẽ gặt lấy quả ác do việc làm xấu xa của họ, và quả thật đã đúng như vậy.

Một người phạm hạnh thì giống như một viên bảo ngọc, như một tấm pha lê sáng trong, dù có đem bùn đen bôi lên cũng không thể nào làm dơ uế được. Cố công bôi nhọ, sĩ nhục người phạm hạnh thì cũng giống như bầy heo kia ra sức đem bùn chà lên pha lê, mong làm mờ đi ánh sáng của nó. Pha lê trái lại không mờ mà tự làm hao tổn sức mình và rước họa vào thân.

Quang Sơn

 

(1) “Ác nhân hại hiền giả do ngưỡng thiên nhi thóa, thóa bất chí thiên hoàn tòng kỷ đọa. Nghịch phong dương trần, trần bất chí bỉ, hoàn bộn kỷ thân, hiền bất khả huỷ, họa tất diệt thân”. (Kinh Tứ thập nhị chương)

Nguồn: daitangkinhvietnam.org


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1297)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1420)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1317)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1396)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1376)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1278)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1337)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1345)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 2032)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1382)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1400)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1276)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1530)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1366)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1235)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1207)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1269)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1250)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1393)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1117)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1114)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1170)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1303)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1331)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1100)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1210)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1148)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1294)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1284)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1412)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1518)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1267)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1254)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1386)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1418)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1331)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1663)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1311)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1316)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1344)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1199)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1221)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1352)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1465)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1523)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1689)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1551)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1442)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1234)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant