Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chuyện tiền thân: Bùn nào làm uế được pha lê!

30 Tháng Mười 201000:00(Xem: 11974)
Chuyện tiền thân: Bùn nào làm uế được pha lê!


Tại tịnh xá Kỳ Viên, đức Thế Tôn kể câu chuyện về việc các tu sĩ ngoại đạo đã thuê người sát hại cô Tôn-đà-lợi (Sundarī).

Thời bấy giờ, dân chúng rất kính trọng đức Phật. Sự kính trọng này giống như năm con sông đổ vào đại dương. Những tu sĩ ngoại đạo nhận thấy rằng lợi lộc và lòng tôn kính không còn đến với họ nữa, nên tập họp lại và cùng nhau bàn bạc:

– Thưa huynh đệ, từ khi Sa môn Cù Đàm (Gotama) xuất hiện, chúng ta không còn nhận được lợi lộc và dân chúng không còn kính trọng chúng ta nữa, chẳng còn một ai biết đến sự có mặt của chúng ta. Ai sẽ là người giúp chúng ta sĩ nhục Sa môn Cù Đàm, và khiến cho dân chúng đừng cúng dườngkính trọng ông ta nữa?

Rồi họ đã nghĩ ra, “Tôn-đà-lợi là người có thể giúp chúng ta thực hiện việc này”.

Vì thế một hôm, khi Tôn-đà-lợi đến thăm khu rừng những vị ngoại đạo cư trú, những vị ngoại đạo gật đầu chào cô nhưng ngậm thinh không nói một lời nào. Cô ta hỏi đi hỏi lại nhiều lần, nhưng không một ai trả lời. Cô hỏi tiếp:

– Thưa các thầy, có điều gì làm cho các thầy bực mình chăng?

Họ nói:

– Này chị, chị không nhìn thấy Sa môn Cù Đàm quấy rầy chúng tôi, tước đi phẩm vật cúng dườngthanh danh của chúng tôi ư?

– Vậy con có thể làm gì để giúp các thầy đây? Cô ta hỏi.

– Này chị, chị xinh đẹp và đáng yêu. Chị có thể làm nhục Sa môn Cù Đàm, lời nói của chị có thể tác động đến rất nhiều người. Nếu ông ta bị hạ nhục, thì chúng tôi có thể nhận lại được lợi lộcthanh danh của mình.

Cô ta đồng ý rồi ra về. Sau đó, cô ta thường mang hoa, dầu thơm, long não, gia vị và trái cây; đợi đến chiều tối, lúc đám đông sau khi nghe đức Thế Tôn thuyết pháp xong và trên đường trở vào kinh thành, cô ta hướng mặt đi đến tinh xá Kỳ Viên. Nếu có ai hỏi cô đang đi đâu, cô ta nói:

– Tôi đang đi đến chỗ Sa môn Cù Đàm, và tôi sẽ ở lại đấy với ông ấy trong một hương phòng.

Sau đó, cô nghỉ qua đêm ở chỗ những tu sĩ ngoại đạo, vào buổi sáng cô ta lại trở về theo con đường từ tinh xá Kỳ Viên vào kinh thành. Nếu có ai hỏi cô ta đi đâu về, cô ta trả lời:

– Tôi đã ở với Sa môn Cù Đàm trong một hương phòng, và ông ấy đã làm tình với tôi.

Một vài ngày sau, những vị ngoại đạo thuê một vài tên côn đồ giết chết Tôn-đà-lợi trước phòng đức Phật và ném xác cô ta vào trong đống rác. Rồi họ lại rêu rao tìm kiếm Tôn-đà-lợi, và trình báo với nhà vua. Nhà vua yêu cầu họ chỉ ra nơi họ nghi vấn. Họ trả lời rằng trước đây một vài ngày cô ta có đi đến tịnh xá Kỳ Viên, nhưng họ không biết những gì xảy ra sau đó. Nhà vua bảo họ đến đó tìm kiếm cô ta. Được phép thế, họ dẫn theo những người hầu của nhà vua, và đi đến Kỳ Viên. Ở đấy, họ lùng sục khắp nơi cho đến khi họ tìm thấy xác Tôn-đà-lợi ở trong đống rác. Bảo mang đến một cái cáng, họ đưa xác cô ta vào kinh thành, tâu với nhà vua rằng những đệ tử của Sa môn Cù Đàm đã giết chết Tôn-đà-lợi và ném cô ta vào trong đống rác để che đậy tội lỗi đấng Đạo Sư của họ. Nhà vua bảo họ đi khắp kinh thành thông báo việc này. Họ đi khắp các đường phố rêu rao:

– Xin hãy đến xem những gì mà những Sa môn Thích tử đã làm.

Rêu rao xong, họ quay lại cổng cung điện. Nhà vua đặt xác Tôn-đà-lợi trên một cái bệ, rồi cho mang vào nghĩa địa canh giữ. Trừ các Tỳ-kheo ra, còn tất cả dân chúng đi khắp trong thành, ngoài thành, khắp công viên, rừng cây, lăng mạ sĩ nhục các Tỳ-kheo và la lớn:

– Xin đến xem những gì mà những Sa môn Thích tử đã làm.

Chư Tỳ-kheo bạch lại tất cả sự việc này lên đức Thế Tôn. Ngài nói:

– Thôi được, các thầy hãy đến quở trách những người này bằng lời sau:

Người thích nói dối đọa địa ngục

Người làm, bảo không có khác chi.

Hai hạng người này khi bỏ mạng

Sanh vào cõi ác không hồ nghi.

Sau đó, nhà vua ra lệnh cho một vài người đi điều tra xem người nào đã giết phải Tôn-đà-lợi. Bấy giờ, những tên vô lại đang ngồi uống rượu bằng đồng tiền vấy máu và tranh cãi với nhau. Một tên nói với một tên khác:

– Mày đã giết Tôn-đà-lợi bằng một cú đánh, rồi ném xác cô ta vào trong đống rác, giờ đây mày lại mua rượu bằng đồng tiền vấy máu đó!

– Đúng đây rồi, đúng những tên này rồi.

Những sứ giả của nhà vua nói và bắt lấy những tên côn đồ, kéo chúng đến trước nhà vua. Nhà vua hỏi:

– Có phải các ngươi đã giết cô ta không?

– Thưa đại vương, chúng con đã làm việc đó. Họ trả lời.

– Ai bảo các ngươi làm?

– Tâu đại vương, những tu sĩ ngoại đạo.

Nhà vua cho gọi những tu sĩ ngoại đạo đến. Ông bảo: – Hãy nhấc Tôn-đà-lợi lên và mang cô ta đi quanh kinh thành, khi các ngươi đi hãy hô to: Cô Tôn-đà-lợi muốn làm nhục Sa môn Cù Đàm, chúng tôi đã giết cô ta; tội lỗi này không phải của Sa môn Cù Đàm, cũng không phải của những đệ tử ông ấy; tội lỗi này là của chúng tôi!

Họ làm theo như vậy. Quần chúng mê mờ trở lại tin tưởng đức Phật. Còn những vị ngoại đạo không còn làm điều ác nữa, do phải nhận lấy sự trừng phạt vì tội sát hại. Từ đó về sau, thanh danh của đức Phật ngày càng trở nên rộng lớn. Rồi một ngày nọ, chư Tỳ-kheo bắt đầu đàm luận việc này trong Chánh pháp đường:

– Thưa các Hiền hữu, những tu sĩ ngoại đạo muốn bôi nhọ đức Phật, và rồi chính họ tự bôi nhọ lấy mình. Từ đó, lợi lộcthanh danh của chúng ta được gia tăng!

Đức Thế Tôn đi vào và hỏi họ đang bàn luận việc gì? Họ bạch sự việc với Ngài. Ngài nói:

– Này các Tỳ-kheo, để làm nhơ uế Thế Tôn là điều không thể. Cố gắng làm nhơ uế Thế Tôn thì cũng giống như cố làm nhơ uế một viên bảo ngọc. Vào đời quá khứ, người ta muốn làm nhơ uế một viên ngọc đẹp, và họ có cố thế nào cũng không thể làm được, nên đành chịu thất bại.

Và rồi, Ngài kể cho họ một câu chuyện đời quá khứ.

* * *

Thuở xưa, khi Phạm Dự (Brahmadatta) là vua nước Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh vào trong một gia đình Bà-la-môn. Khi Ngài trưởng thành, nhận thức được nỗi khổ đau phát sanh từ tham ái, Ngài đã rời bỏ gia đình sống đời sống xuất gia. Sau khi vượt qua ba rặng núi của dãy Tuyết Sơn, đến đấy, Ngài xuất gia làm ẩn sĩ, sống trong một thảo am.

Gần thảo am của Ngài có một hang động pha lê, có ba mươi con heo rừng sống trong ấy. Gần hang động, có một con sư tử thường hay qua lại và cái bóng của nó phản chiếu trong pha lê. Những con heo rừng thấy cái bóng phản chiếu này sinh sợ hãi nên trở thành gầy còm, xanh xao. Chúng nghĩ, “sở dĩ chúng ta thấy cái bóng phản chiếu này bởi vì lớp pha lê quá sáng. Chúng ta hãy làm dơ bẩn và uế màu nó đi.” Vì thế, chúng lấy một ít bùn từ một cái hồ gần đó và chà xát mãi lên lớp pha lê. Nhưng pha lê, được lớp lông cứng của những con heo chà xát càng trở nên sáng bóng hơn.

Chúng không biết xoay xở ra làm sao nên quyết định đến hỏi ẩn sĩ, làm cách nào chúng có thể làm dơ bẩn được lớp pha lê. Sau khi đi đến vị ẩn sĩ, chúng cung kính chào hỏi, rồi ngồi xuống một bên và đọc lên hai bài kệ:

Ba mươi chúng tôi bảy năm nay

Sống trong hang động pha lê này.

Giờ cố làm mờ đi ánh sáng

Nhưng chúng tôi đành chịu bó tay.

chúng tôi đây dốc hết sức

Làm mờ ánh sáng pha lê đi.

Pha lê vẫn tỏa ánh sáng rực,

Nguyên nhân có thể là do gì?

Bồ-tát lắng nghe, sau đó Ngài đọc lên bài kệ thứ ba:

Pha lê quý giá, không tì vết

Sáng rực, trong suốt; đâu phải gương.

Ánh sáng của nó mãi chắc thật

Không có vật gì làm tổn thương.

Này những bạn heo, tốt nhất hãy

Chọn lấy nơi khác mà náu nương.

Chúng đã làm như vậy khi nghe câu trả lời này. Rồi Bồ-tát trú sâu trong thiền định, và sau đó sanh về thế giới Phạm Thiên.

* * *

Sau khi kết thúc pháp ngữ này, đức Thế Tôn nhận diện Tiền Thân:

Vào thuở ấy, Ta chính là vị ẩn sĩ.

 

(*) Tiền Thân Maṇisūkara, số 285, bản Anh ngữ.

Lời bàn:

Trong cuộc sống, không phải lúc nào chúng ta cũng gặp được những điều an ổn, gặp được những người tốt, sẵn lòng thương yêu và giúp đỡ. Bên cạnh những người thương yêuquý mến, vẫn có những người luôn ghanh ghét, đố kỵ, tìm cách vu khống, bôi nhọ và hãm hại chúng ta. Điều đó là lẽ thường tình trong cuộc sống, bởi lẽ sống giữa đời này khó tìm ra người hoàn toàn được thương yêu mà không bị ganh ghét. Vì thế trong cuộc sống, chúng ta đừng mong rằng tất cả mọi người sẽ luôn yêu thươngquý trọng chúng ta, mà chúng ta phải làm sao tự hoàn thiện lấy bản thân, sống như thế nào đó để khi đối mặt với những ghanh ghét, vu khống… chúng ta vẫn có được một thái độ tỉnh táo, bình thản, sẵn sàng đón nhận và chuyển hóakhông sinh lòng oán trách, thù hận.

Cuộc đời của đức Phật là tấm gương sáng, phản chiếu rất rõ phẩm hạnh này. Trong sự nghiệp hoằng pháp độ sanh, đức Phật gặp rất nhiều chướng ngại, đối mặt với không ít những lời sỉ nhục, vu khống, bôi nhọ… Nhưng đứng trước những trường hợp như vậy, Ngài luôn thể hiện một thái độ bình thản, sẵn sàng đón nhận như là cái tất yếu phải có; không dao động sợ hãi, không oán hận trả thù. Ngài bình thản đón nhận vì tin rằng: “Kẻ ác hại người hiền chẳng khác nào ngước lên trời phun nước miếng, nước miếng chẳng đến trời mà trở lại rơi nhằm vào mình. Ngược gió tung bụi, bụi chẳng đến người mà trở lại dính vào thân. Người hiền không thể hại được mà họa ắt mình phải chịu”.1

câu chuyện này, một lần nữa chúng ta lại nhận thấy điều ấy.

Những tu sĩ ngoại đạomục đích lợi lộc và muốn được dân chúng tôn kính nên đã bày mưu bôi nhọ thanh danh đức Phật. Đức Phật bình thản đón nhận và tin rằng chính những kẻ vu khống kia sẽ gặt lấy quả ác do việc làm xấu xa của họ, và quả thật đã đúng như vậy.

Một người phạm hạnh thì giống như một viên bảo ngọc, như một tấm pha lê sáng trong, dù có đem bùn đen bôi lên cũng không thể nào làm dơ uế được. Cố công bôi nhọ, sĩ nhục người phạm hạnh thì cũng giống như bầy heo kia ra sức đem bùn chà lên pha lê, mong làm mờ đi ánh sáng của nó. Pha lê trái lại không mờ mà tự làm hao tổn sức mình và rước họa vào thân.

Quang Sơn

 

(1) “Ác nhân hại hiền giả do ngưỡng thiên nhi thóa, thóa bất chí thiên hoàn tòng kỷ đọa. Nghịch phong dương trần, trần bất chí bỉ, hoàn bộn kỷ thân, hiền bất khả huỷ, họa tất diệt thân”. (Kinh Tứ thập nhị chương)

Nguồn: daitangkinhvietnam.org


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1546)
Tham luận “The Way to World Peace via an Integrated Kantian and Buddhist Perspective” được tác già trình bày tại Diễn Đàn Phật Giáo
(Xem: 1403)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
(Xem: 1820)
Bản Ngã Càng Lớn, Sĩ Diện Càng Nhiều, Càng Dễ Bị Tổn Thương.
(Xem: 1576)
Thân mạng chúng tachúng ta không biết yêu thương thì làm sao chúng ta có đủ yêu thương để gửi đến người khác.
(Xem: 1350)
Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt.
(Xem: 1638)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 2162)
Quán tưởngphương pháp Phật tử áp dụng hằng ngày, luyện cả thân tâm, đem lại sự hòa hợp giữa tinh thầnvật chất, giữa con ngườithiên nhiên.
(Xem: 1905)
Hành động phản ánh được ý thức, tính cách của mỗi người, lời nói, suy nghĩ thế nào sẽ biểu hiện ra hành động như thế đó,
(Xem: 1264)
Hôm ra mắt đợt đầu 29 cuốn của Thanh Văn Tạng trong công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hội Đồng Hoằng PhápHội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời tổ chức tại Little Saigon, Miền Nam California, Hoa Kỳ, vào ngày 19 tháng 3 năm 2023
(Xem: 1444)
Đạo Phật được biết đến như một tôn giáo hiền hòa nhất và điều đặc biệtcuộc đời vị lãnh đạo tinh thần tối cao của đạo Phật gắn liền với những cái cây.
(Xem: 1440)
Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành - trụ - hoại - không.
(Xem: 1730)
Dĩ nhiên là người phàm chúng ta không ai thấy được địa ngục, trừ Đức Phật và các bậc Thánh La-hán.
(Xem: 1484)
ghiệp là tất cả những hành động có tác ý, biểu hiện thường xuyên bằng thân, khẩu, hay ý.
(Xem: 1349)
Phật giáo không chỉ chủ trương từ bi đối với con người, tôn trọng đối với mọi sinh mệnh mà còn phải bảo vệ môi trường sống thiên nhiên,
(Xem: 1493)
Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật,
(Xem: 1434)
Trước đây, vào thời niên thiếu, tôi chưa từng tín ngưỡng bất kỳ một tôn giáo nào. Tôi đang đứng giữa ngã tư đường, không Phật cũng không Đạo.
(Xem: 1759)
Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có một cái “Tôi” và tính chấp thủ, nhưng có người ý thứcquán chiếu được điều đó
(Xem: 1458)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1417)
Nhưng giới khoa học vẫn còn hoang mang trong nhận định thế giới vật chất đời thường là ảo, không có thực thể.
(Xem: 1432)
quan niệm rằng người có danh phận, giàu sang là do phước và cúng dường, hộ trì người có phước thì được phước nhiều hơn?
(Xem: 1503)
Hai từ chiến tranh, không ai trong chúng ta là không nghe đến. Trong quá khứ đã có rất nhiều cuộc chiến tranh xảy ra trên quả địa cầu nầy,
(Xem: 1691)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có tên gọi đầy đủ là :"Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm",
(Xem: 1590)
Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện.
(Xem: 1532)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phương pháp phòng hộ các căn môn được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 1408)
Kể từ khi con người biết xử dụng tiền bạc làm đơn vị trao đổi mua sắm đến nay, thì không ai là không cần đến tiền!
(Xem: 1497)
Đối trong nhà Phật thì thế gian gồm có khí thế gianchúng sanh thế gian.
(Xem: 1215)
Đây là một trường hợpThiền sư Thích Nhất Hạnhcộng đồng của Thầy đã thay đổi cuộc đời của một người.
(Xem: 1971)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1388)
Đời tôi gần giống như cuộc đời của cậu bé mồ côi ở Viện Dục Anh trong văn Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi đều sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Đời tôi gắn liền với tập thể, lớn lên và nương tựa vào tập thể.
(Xem: 1541)
Để giúp người Phật tửđời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản.
(Xem: 2907)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1547)
Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt…
(Xem: 1736)
Điều phi đạo là những việc dẫn đến sự hao tài, thứ nhất đó là đam mê cờ bạc.
(Xem: 1588)
Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(Xem: 2036)
Nếu có ai đó hỏi Phật Pháp có gì hay thì những người đệ tử Phật sẽ trả lời như thế nào?
(Xem: 1577)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1777)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1977)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(Xem: 2172)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(Xem: 1641)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(Xem: 2612)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(Xem: 1706)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 1888)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(Xem: 1849)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(Xem: 1615)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(Xem: 2355)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1792)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1852)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1720)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2092)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant