Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chuyện trên đồi hoa sứ

02 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 13440)
Chuyện trên đồi hoa sứ

 

... Bà già điên vừa gặp lại con….

Hồi mới đổi về dạy học nơi vùng ven biển, tôi có nghe các bạn đồng nghiệp kể chuyện người đàn bà điên sống trên một ngọn đồi. Mấy cậu học trò thì bảo:

- Tụi em hay lên đồi hái hoa sứ. Bà già điên ở trong một am thất bỏ hoang, suốt ngày cứ nói lảm nhảm như ma nhập. Người lớn cấm ngặt chúng em lên đó. Vì nghe nói thời chiến tranh, trên đồi có nhiều người chết oan. Những vong hồn uổng tử vẫn còn lẩn khuất chưa siêu độ. Vị sư cư trú trong thảo am cùng chú tiểu- con của bà điên cũng bị bọn Tây bắn chết rồi quăng xác xuống biển…

Câu chuyện thật thương tâm. Muốn tìm hiểu thực hư về người mẹ gặp lại con sau chừng ấy năm trời, nên sẵn dịp đến thăm bịnh một em học sinh, tôi liền tìm lên đồi hoa sứ...

Thuở ấy có người con gái làng chài, vừa bước qua tuổi đôi mươi, tâm hồn thơ ngây mộc mạc như cỏ nội hoa đồng. Không thuộc loại sắc nước hương trời, nhưng cô cũng có chút duyên ngầm xinh xắn đáng yêu. Những ngày rỗi việc, cô theo chúng bạn lên đồi hái hoa ngắm cảnh nên biết có vị sư ẩn tu trên này. Từ đó cô thường lui tới thảo am dâng hương cúng Phật. Và cũng từ đó... bao chuyện đời dung rủi đẩy đưa người con gái vào trong một khúc quanh bi lụy đoạn trường. Thời Pháp thuộc, dân miền biển vốn nghèo lại càng khốn khổ vì nạn sưu cao thuế nặng. Bọn quan lại thừa nước đục mạnh tay bóc lột dân đen đến tận xương tủy. Cha cô gái cũng nằm trong số người bị bắt bớ giam cầm vì không đủ tiền đóng thuế thân.

Bước đường cùng, cô gái đành nhận lời lấy một hào phú góa vợ trên phố để cứu cha thoát khỏi vòng lao lý. Về làm dâu nhà giàu, thân cô hứng chịu muôn vàn nỗi đắng cay tủi cực. Rồi cô có thai và sanh con. Niềm vui lớn lao của người mẹ trẻ thoáng chốc chẳng tày gang, khi tai bay vạ gió bất ngờ ập tới. Đứa con riêng của chồng trong lúc vui chơi chè chén gây sự đả thương một viên quan pháp, phải vào tù. Mẹ chồng buồn phiền lâm trọng bịnh. Gia đình nhà chồng liên tiếp xảy ra bao chuyện trộm cắp thua lỗ kiện cáo. Sau khi lo chạy án cho con, thuốc thang cho mẹ, thì gia sản nhà hào phú cũng gần khánh kiệt. Nghe lời thầy pháp, ông cương quyết đuổi hai mẹ con cô ra khỏi nhà, cho rằng đứa bé không phải là máu mủ của mình. Và chính cô đã mang lại điều xúi quẩy đến cho gia đình họ. Không lời biện bạch. Cô ôm con trở lại xóm chài trong tâm trạng uất nghẹn đau khổ tột cùng…

Về nhà không bao lâu, cô gái do quẩn trí quá mà sanh bịnh, suốt ngày khóc than vật vã, lúc mê lúc tỉnh. Người dân biển vốn kiêng kỵ dị đoan, họ cho cô bị tà ma quấy phá, phải đem cho đứa con thì người mẹ mới mong khỏi bịnh mà xóm làng cũng được bình yên. Chẳng thể làm gì khác, cha mẹ cô bèn đưa cháu lên đồi gởi cho vị sư. Cảm cảnh thương tâm, sư nhận lời nuôi nấng đứa trẻ. Những lúc hồi tỉnh, cô cũng tìm lên đồi thăm con. Thế là người ta bắt đầu đồn thổi cho rằng đứa bé là con của vị sư. Mọi người không ngớt dè bỉu nặng lời: “Nhà sư phá giới phạm trai, làm khổ đời con gái người ta, tu gì mà tu…” Họ khinh bỉ xem thường Sư ra mặt. Trước sau Sư vẫn im lặng nhẫn nhịn. Ngày ngày Sư cuốc đất trồng cây, lượm hoa sứ bán cho những lái buôn xa. Hai thầy trò đắp đổi qua ngày. Thắm thoát, đứa bé ở với Sư đã được bảy năm.

Nghe nhiều người nói, bà mẹ gã hào phú tìm lên đồi, xúc động khi thấy chú đạo nhỏ giống con trai mình như đúc. Bà về bàn với con, sẽ lên thưa Sư xin nhận lại cháu nội. Bấy giờ mọi người mới vỡ lẽ. Thì ra lâu nay họ nghi ngờ một nhà tu hành chơn chính. Họ đã nặng lời khinh miệt biết bao. Vậy mà sư vẫn không một lời phân trần giải thích. Lòng từ bi đức độtâm nguyện nhẫn nhục của nhà sư, khiến mọi người càng thêm khâm phục kính ngưỡng.

Gia đình nhà hào phú chưa kịp lên đưa con về thì tình hình an ninh trên đồi đã trở nên bất ổn. Nơi đây gần cửa biển, là vùng chiến lược quân sự và một cuộc chiến sống chết dành lại chủ quyền sắp xảy ra. Dân quân cách mạng vừa đến dựng trại ngay dưới chân đồi. Người ta khuyên nhà sư dời đi nơi khác, nhưng ông còn chần chừ. Thế rồi một đêm, cả làng chài bừng thức dậy khi nghe tiếng súng nổ dữ dội vọng lại từ đồi hoa sứ. Mọi người nơm nớp lo âu. Tàu chiến Pháp có chỉ điểm, bất ngờ đánh úp lên đồi. Dân quân yếu thế phải rút lui.

Vài hôm sau tình hình lắng dịu, dân làng mới lần mò tìm tới thảo am. Cảnh vật điêu tàn. Thảo am bỏ trống. Xung quanh đồi có nhiều xác chết, song không tìm thấy vị sư và chú tiểu. Mọi người ra sức truy tìm suốt mấy ngày liền vẫn chẳng thấy tăm hơi. Người ta lại xôn xao bàn tán. Người thì nhất quyết nói bọn Tây khép tội nhà sư nuôi chứa quân cách mạng nên đã bắn ông và chú tiểu quăng xác xuống biển. Người lại chắc chắn thấy hai thầy trò sư được dân quân bảo vệ đưa ra khỏi vòng nguy hiểm. Có thể ông đã theo họ vào căn cứ. Dân làng bán tín bán nghi, chẳng rõ thực hư thế nào, họ chỉ còn biết nguyện cầu và chờ đợi. Thời gian trôi qua, những cây sứ già cỗi vươn cành, ra hoa trỗ sắc đã bao mùa. Duy có sư là bặt vô âm tín. Nghĩ sư đã mất, mọi người cùng nhau xây ngôi tháp vọng để tưởng nhớ và lập bài vị thờ cả hai thầy trò trong thảo am. Hơn nửa thế kỷ trôi qua rồi. Biết bao cảnh tang thương dâu bể đổi dời. Chuyện chú tiểu ngày xưa trở về quả là điều không tưởng…

Tôi bước lên đồi. Choáng ngợp trước một rừng hoa đại xum xuê rộng lớn. Những gốc cây sù sì, gân guốc tua tủa như đôi tay lực sĩ mạnh mẽ vươn cao. Biển trời bao la. Mây núi điệp trùng. Dù là nơi thanh khí tu hành, nhưng cảnh trí còn nhuốm đầy màu sắc u linh chết chóc. Từ ngày hai thầy trò vị sư mất tích, chẳng mấy ai dám lui tới ngọn đồi. Duy chỉ có người mẹ mất con, một mình lang thang kiếm tìm khắp nẻo. Về già, tâm trí có phần tỉnh táo hơn và vì không còn sức xuống lên, bà ở hẳn luôn trên này. Dân làng cất căn chòi nhỏ phía sau thất để bà trú ngụ, lại chu cấp gạo muối nhang đèn để bà sinh sống hằng ngày lo khấn hương lạy Phật.

... Một bà lão già khọm, vận bộ đồ vạt màu nâu bạc đang quét gom hoa sứ. Bà dừng tay khi tôi bước tới chào:- Chú em mày lên thăm thầy phải không? Thầy đang ngồi thiền, đừng làm ồn...

Trong gian tịnh thất nhỏ, duy nhất một bức tượng Thích Ca ngồi yên vị trên chiếc bệ xi măng ám khói. Nhìn dáng dấp cùng gương mặt vị sư ngồi thiền, bất giác tôi nhíu mày:-Vị thầy còn rất trẻ, khoảng ngoài ba mươi. Đâu lý nào… Chưa tin lắm vào trực giác của mình. Song rõ ràng đây không thể là chú tiểu năm xưa. Như vậy điều thần kỳ mà người ta nghĩ, họa chăng chỉ nằm trong giấc mơ và tâm tưởng của người mẹ già mà thôi.

 

Ngọn đồi Hoa Sứ bây giờ khác xưa nhiều lắm. Một vị thầy người địa phương cám cảnh phong thủy hữu tình tìm đến lưu trú tu niệm, sau đó mở Đạo tràng niệm Phật khuyến hóa người dân trong vùng. Năm nay nhân ngày giỗ nhà Sư, luôn thể thầy khánh thành ngôi chánh điện vừa được tôn tạo, và lập đàn chẩn tế cầu siêu bạt độ cho những vong hồn chết oan. Thượng tọa Nhất Thiên có về dự lễ. Chúng em rất mong thầy

Cậu học trò viết thư kể về vùng biển quê mình. Những ngày lưu trú nơi ấy, tôi thường lên đồi đàm đạo cùng thầy Nhất Thiên. Sau này trở nên thân thiết hơn, tôi mới nói lên điều ngờ vực trong lòng, thầy cười lớn:- Dĩ nhiên là ai cũng dễ dàng nhận ra, chỉ có bà lão… Mới đầu tôi định ra vùng này dưỡng bịnh ít tháng. Khi nghe người ta kể câu chuyện thương tâm nên động lòng và cũng vì tò mò. Khi tôi lên đây thì thấy bà đang quỳ lạy Phật rất thành tâm nên buột miệng kêu lên:- Mẹ! Bà lão quay lại, sững người nhìn tôi giây lát, rồi bất ngờ sụp xuống ôm chầm lấy chân tôi nức nở:- Phải con về đó không. Mẹ chờ con suốt bao nhiêu năm nay. Mẹ lạy Bồ Tát, xin cho con trở về… Bồ Tát thật linh ứng. Con ơi!

Thấy bà lão đáng thương quá, tôi không thể làm gì khác hơn. Có lẽ từ nhiều kiếp xa xưa, tôi và bà đã là mẹ con. Phật nói chúng sanh luân hồi qua lại cũng từng làm cha mẹ con cái với nhau. Từ ngày nhận con, bà gần như hồi phục.

Tôi hỏi:- Nhưng ... e rằng rồi đây, bà sẽ biết mình ngộ nhận.

Thầy gật đầu :- Người bình thường đôi khi còn ngộ nhận... huống là. Có lẽ nghiệp lực của bà lão đang đến hồi xoay chuyển. Hằng ngàychuyên tâm niệm Phật nghe kinh, vui sống với hiện tại là được rồi. Tôi đến đây chỉ để trợ duyênvượt qua mọi khoảnh khắc cuối đời.

 

Sau khi bà lão mất, tôi cùng vị thầy cũng rời xa xóm biển. Cuộc sống vẫn bình lặng như bao giờ. Điều diệu kỳ hy hữu dù không xảy ra, nhưng bao đau khổ chấp mê của một đời... thoáng chốc tan biến theo sương khói trần gian mộng ảo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1416)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1310)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1389)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1372)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1274)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1332)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1341)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 2027)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1380)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1395)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1274)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1524)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1362)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1230)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1203)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1265)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1247)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1393)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1115)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1109)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1169)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1300)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1328)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1099)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1205)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1144)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1291)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1282)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1411)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1509)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1264)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1252)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1384)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1416)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1328)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1654)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1303)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1310)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1343)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1193)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1215)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1351)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1463)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1518)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1680)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1548)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1437)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1230)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
(Xem: 1343)
Người tu ở một mình hay cùng với đại chúng, chuyên tu hay đi vào đời để hoằng phápsở thích, hạnh nguyện riêng của mỗi người.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant