Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chuyện trên đồi hoa sứ

02 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 13326)
Chuyện trên đồi hoa sứ

 

... Bà già điên vừa gặp lại con….

Hồi mới đổi về dạy học nơi vùng ven biển, tôi có nghe các bạn đồng nghiệp kể chuyện người đàn bà điên sống trên một ngọn đồi. Mấy cậu học trò thì bảo:

- Tụi em hay lên đồi hái hoa sứ. Bà già điên ở trong một am thất bỏ hoang, suốt ngày cứ nói lảm nhảm như ma nhập. Người lớn cấm ngặt chúng em lên đó. Vì nghe nói thời chiến tranh, trên đồi có nhiều người chết oan. Những vong hồn uổng tử vẫn còn lẩn khuất chưa siêu độ. Vị sư cư trú trong thảo am cùng chú tiểu- con của bà điên cũng bị bọn Tây bắn chết rồi quăng xác xuống biển…

Câu chuyện thật thương tâm. Muốn tìm hiểu thực hư về người mẹ gặp lại con sau chừng ấy năm trời, nên sẵn dịp đến thăm bịnh một em học sinh, tôi liền tìm lên đồi hoa sứ...

Thuở ấy có người con gái làng chài, vừa bước qua tuổi đôi mươi, tâm hồn thơ ngây mộc mạc như cỏ nội hoa đồng. Không thuộc loại sắc nước hương trời, nhưng cô cũng có chút duyên ngầm xinh xắn đáng yêu. Những ngày rỗi việc, cô theo chúng bạn lên đồi hái hoa ngắm cảnh nên biết có vị sư ẩn tu trên này. Từ đó cô thường lui tới thảo am dâng hương cúng Phật. Và cũng từ đó... bao chuyện đời dung rủi đẩy đưa người con gái vào trong một khúc quanh bi lụy đoạn trường. Thời Pháp thuộc, dân miền biển vốn nghèo lại càng khốn khổ vì nạn sưu cao thuế nặng. Bọn quan lại thừa nước đục mạnh tay bóc lột dân đen đến tận xương tủy. Cha cô gái cũng nằm trong số người bị bắt bớ giam cầm vì không đủ tiền đóng thuế thân.

Bước đường cùng, cô gái đành nhận lời lấy một hào phú góa vợ trên phố để cứu cha thoát khỏi vòng lao lý. Về làm dâu nhà giàu, thân cô hứng chịu muôn vàn nỗi đắng cay tủi cực. Rồi cô có thai và sanh con. Niềm vui lớn lao của người mẹ trẻ thoáng chốc chẳng tày gang, khi tai bay vạ gió bất ngờ ập tới. Đứa con riêng của chồng trong lúc vui chơi chè chén gây sự đả thương một viên quan pháp, phải vào tù. Mẹ chồng buồn phiền lâm trọng bịnh. Gia đình nhà chồng liên tiếp xảy ra bao chuyện trộm cắp thua lỗ kiện cáo. Sau khi lo chạy án cho con, thuốc thang cho mẹ, thì gia sản nhà hào phú cũng gần khánh kiệt. Nghe lời thầy pháp, ông cương quyết đuổi hai mẹ con cô ra khỏi nhà, cho rằng đứa bé không phải là máu mủ của mình. Và chính cô đã mang lại điều xúi quẩy đến cho gia đình họ. Không lời biện bạch. Cô ôm con trở lại xóm chài trong tâm trạng uất nghẹn đau khổ tột cùng…

Về nhà không bao lâu, cô gái do quẩn trí quá mà sanh bịnh, suốt ngày khóc than vật vã, lúc mê lúc tỉnh. Người dân biển vốn kiêng kỵ dị đoan, họ cho cô bị tà ma quấy phá, phải đem cho đứa con thì người mẹ mới mong khỏi bịnh mà xóm làng cũng được bình yên. Chẳng thể làm gì khác, cha mẹ cô bèn đưa cháu lên đồi gởi cho vị sư. Cảm cảnh thương tâm, sư nhận lời nuôi nấng đứa trẻ. Những lúc hồi tỉnh, cô cũng tìm lên đồi thăm con. Thế là người ta bắt đầu đồn thổi cho rằng đứa bé là con của vị sư. Mọi người không ngớt dè bỉu nặng lời: “Nhà sư phá giới phạm trai, làm khổ đời con gái người ta, tu gì mà tu…” Họ khinh bỉ xem thường Sư ra mặt. Trước sau Sư vẫn im lặng nhẫn nhịn. Ngày ngày Sư cuốc đất trồng cây, lượm hoa sứ bán cho những lái buôn xa. Hai thầy trò đắp đổi qua ngày. Thắm thoát, đứa bé ở với Sư đã được bảy năm.

Nghe nhiều người nói, bà mẹ gã hào phú tìm lên đồi, xúc động khi thấy chú đạo nhỏ giống con trai mình như đúc. Bà về bàn với con, sẽ lên thưa Sư xin nhận lại cháu nội. Bấy giờ mọi người mới vỡ lẽ. Thì ra lâu nay họ nghi ngờ một nhà tu hành chơn chính. Họ đã nặng lời khinh miệt biết bao. Vậy mà sư vẫn không một lời phân trần giải thích. Lòng từ bi đức độtâm nguyện nhẫn nhục của nhà sư, khiến mọi người càng thêm khâm phục kính ngưỡng.

Gia đình nhà hào phú chưa kịp lên đưa con về thì tình hình an ninh trên đồi đã trở nên bất ổn. Nơi đây gần cửa biển, là vùng chiến lược quân sự và một cuộc chiến sống chết dành lại chủ quyền sắp xảy ra. Dân quân cách mạng vừa đến dựng trại ngay dưới chân đồi. Người ta khuyên nhà sư dời đi nơi khác, nhưng ông còn chần chừ. Thế rồi một đêm, cả làng chài bừng thức dậy khi nghe tiếng súng nổ dữ dội vọng lại từ đồi hoa sứ. Mọi người nơm nớp lo âu. Tàu chiến Pháp có chỉ điểm, bất ngờ đánh úp lên đồi. Dân quân yếu thế phải rút lui.

Vài hôm sau tình hình lắng dịu, dân làng mới lần mò tìm tới thảo am. Cảnh vật điêu tàn. Thảo am bỏ trống. Xung quanh đồi có nhiều xác chết, song không tìm thấy vị sư và chú tiểu. Mọi người ra sức truy tìm suốt mấy ngày liền vẫn chẳng thấy tăm hơi. Người ta lại xôn xao bàn tán. Người thì nhất quyết nói bọn Tây khép tội nhà sư nuôi chứa quân cách mạng nên đã bắn ông và chú tiểu quăng xác xuống biển. Người lại chắc chắn thấy hai thầy trò sư được dân quân bảo vệ đưa ra khỏi vòng nguy hiểm. Có thể ông đã theo họ vào căn cứ. Dân làng bán tín bán nghi, chẳng rõ thực hư thế nào, họ chỉ còn biết nguyện cầu và chờ đợi. Thời gian trôi qua, những cây sứ già cỗi vươn cành, ra hoa trỗ sắc đã bao mùa. Duy có sư là bặt vô âm tín. Nghĩ sư đã mất, mọi người cùng nhau xây ngôi tháp vọng để tưởng nhớ và lập bài vị thờ cả hai thầy trò trong thảo am. Hơn nửa thế kỷ trôi qua rồi. Biết bao cảnh tang thương dâu bể đổi dời. Chuyện chú tiểu ngày xưa trở về quả là điều không tưởng…

Tôi bước lên đồi. Choáng ngợp trước một rừng hoa đại xum xuê rộng lớn. Những gốc cây sù sì, gân guốc tua tủa như đôi tay lực sĩ mạnh mẽ vươn cao. Biển trời bao la. Mây núi điệp trùng. Dù là nơi thanh khí tu hành, nhưng cảnh trí còn nhuốm đầy màu sắc u linh chết chóc. Từ ngày hai thầy trò vị sư mất tích, chẳng mấy ai dám lui tới ngọn đồi. Duy chỉ có người mẹ mất con, một mình lang thang kiếm tìm khắp nẻo. Về già, tâm trí có phần tỉnh táo hơn và vì không còn sức xuống lên, bà ở hẳn luôn trên này. Dân làng cất căn chòi nhỏ phía sau thất để bà trú ngụ, lại chu cấp gạo muối nhang đèn để bà sinh sống hằng ngày lo khấn hương lạy Phật.

... Một bà lão già khọm, vận bộ đồ vạt màu nâu bạc đang quét gom hoa sứ. Bà dừng tay khi tôi bước tới chào:- Chú em mày lên thăm thầy phải không? Thầy đang ngồi thiền, đừng làm ồn...

Trong gian tịnh thất nhỏ, duy nhất một bức tượng Thích Ca ngồi yên vị trên chiếc bệ xi măng ám khói. Nhìn dáng dấp cùng gương mặt vị sư ngồi thiền, bất giác tôi nhíu mày:-Vị thầy còn rất trẻ, khoảng ngoài ba mươi. Đâu lý nào… Chưa tin lắm vào trực giác của mình. Song rõ ràng đây không thể là chú tiểu năm xưa. Như vậy điều thần kỳ mà người ta nghĩ, họa chăng chỉ nằm trong giấc mơ và tâm tưởng của người mẹ già mà thôi.

 

Ngọn đồi Hoa Sứ bây giờ khác xưa nhiều lắm. Một vị thầy người địa phương cám cảnh phong thủy hữu tình tìm đến lưu trú tu niệm, sau đó mở Đạo tràng niệm Phật khuyến hóa người dân trong vùng. Năm nay nhân ngày giỗ nhà Sư, luôn thể thầy khánh thành ngôi chánh điện vừa được tôn tạo, và lập đàn chẩn tế cầu siêu bạt độ cho những vong hồn chết oan. Thượng tọa Nhất Thiên có về dự lễ. Chúng em rất mong thầy

Cậu học trò viết thư kể về vùng biển quê mình. Những ngày lưu trú nơi ấy, tôi thường lên đồi đàm đạo cùng thầy Nhất Thiên. Sau này trở nên thân thiết hơn, tôi mới nói lên điều ngờ vực trong lòng, thầy cười lớn:- Dĩ nhiên là ai cũng dễ dàng nhận ra, chỉ có bà lão… Mới đầu tôi định ra vùng này dưỡng bịnh ít tháng. Khi nghe người ta kể câu chuyện thương tâm nên động lòng và cũng vì tò mò. Khi tôi lên đây thì thấy bà đang quỳ lạy Phật rất thành tâm nên buột miệng kêu lên:- Mẹ! Bà lão quay lại, sững người nhìn tôi giây lát, rồi bất ngờ sụp xuống ôm chầm lấy chân tôi nức nở:- Phải con về đó không. Mẹ chờ con suốt bao nhiêu năm nay. Mẹ lạy Bồ Tát, xin cho con trở về… Bồ Tát thật linh ứng. Con ơi!

Thấy bà lão đáng thương quá, tôi không thể làm gì khác hơn. Có lẽ từ nhiều kiếp xa xưa, tôi và bà đã là mẹ con. Phật nói chúng sanh luân hồi qua lại cũng từng làm cha mẹ con cái với nhau. Từ ngày nhận con, bà gần như hồi phục.

Tôi hỏi:- Nhưng ... e rằng rồi đây, bà sẽ biết mình ngộ nhận.

Thầy gật đầu :- Người bình thường đôi khi còn ngộ nhận... huống là. Có lẽ nghiệp lực của bà lão đang đến hồi xoay chuyển. Hằng ngàychuyên tâm niệm Phật nghe kinh, vui sống với hiện tại là được rồi. Tôi đến đây chỉ để trợ duyênvượt qua mọi khoảnh khắc cuối đời.

 

Sau khi bà lão mất, tôi cùng vị thầy cũng rời xa xóm biển. Cuộc sống vẫn bình lặng như bao giờ. Điều diệu kỳ hy hữu dù không xảy ra, nhưng bao đau khổ chấp mê của một đời... thoáng chốc tan biến theo sương khói trần gian mộng ảo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1264)
Trước đây, vào thời niên thiếu, tôi chưa từng tín ngưỡng bất kỳ một tôn giáo nào. Tôi đang đứng giữa ngã tư đường, không Phật cũng không Đạo.
(Xem: 1573)
Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có một cái “Tôi” và tính chấp thủ, nhưng có người ý thứcquán chiếu được điều đó
(Xem: 1294)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1207)
Nhưng giới khoa học vẫn còn hoang mang trong nhận định thế giới vật chất đời thường là ảo, không có thực thể.
(Xem: 1237)
quan niệm rằng người có danh phận, giàu sang là do phước và cúng dường, hộ trì người có phước thì được phước nhiều hơn?
(Xem: 1332)
Hai từ chiến tranh, không ai trong chúng ta là không nghe đến. Trong quá khứ đã có rất nhiều cuộc chiến tranh xảy ra trên quả địa cầu nầy,
(Xem: 1475)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có tên gọi đầy đủ là :"Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm",
(Xem: 1392)
Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện.
(Xem: 1350)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phương pháp phòng hộ các căn môn được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 1217)
Kể từ khi con người biết xử dụng tiền bạc làm đơn vị trao đổi mua sắm đến nay, thì không ai là không cần đến tiền!
(Xem: 1323)
Đối trong nhà Phật thì thế gian gồm có khí thế gianchúng sanh thế gian.
(Xem: 1088)
Đây là một trường hợpThiền sư Thích Nhất Hạnhcộng đồng của Thầy đã thay đổi cuộc đời của một người.
(Xem: 1743)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1304)
Đời tôi gần giống như cuộc đời của cậu bé mồ côi ở Viện Dục Anh trong văn Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi đều sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Đời tôi gắn liền với tập thể, lớn lên và nương tựa vào tập thể.
(Xem: 1370)
Để giúp người Phật tửđời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản.
(Xem: 2589)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1375)
Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt…
(Xem: 1547)
Điều phi đạo là những việc dẫn đến sự hao tài, thứ nhất đó là đam mê cờ bạc.
(Xem: 1439)
Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(Xem: 1819)
Nếu có ai đó hỏi Phật Pháp có gì hay thì những người đệ tử Phật sẽ trả lời như thế nào?
(Xem: 1382)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1599)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1807)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(Xem: 2003)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(Xem: 1427)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(Xem: 2429)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(Xem: 1570)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 1738)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(Xem: 1684)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(Xem: 1406)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(Xem: 2182)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1609)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1656)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1541)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 1906)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
(Xem: 1877)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2027)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1521)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 1858)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1550)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1557)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1693)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1690)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1385)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1552)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 1892)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1635)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2162)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1529)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1553)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant