Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sống chết đường tơ

30 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 12516)
Sống chết đường tơ

SỐNG CHẾT ĐƯỜNG TƠ

Thích Thiện Chánh

Trong cuộc sống đời thường không ai dám hứa trước được điều gì, hay ta sẽ làm cái này hoặc ta sẽ làm cái kia, vì cái chết sẽ đến bất cứ lúc nào. Thế thường, con người đều dễ dàng nhận thấy điều này từ môi trường xung quanh, người thân ra đi, bạn bè ra đi, người này ra đi, người kia không còn nữa, thế nhưng rồi chúng ta cũng cố quên hoặc vì một lí do nào đó mà chúng ta lãnh cảm trước sự tàn khốc của cuộc đời.

Chúng ta vẫn cạnh tranh lạnh lùng để tìm sự thoả mãn vật chất, chúng ta thờ ơ với sự đau khổ của người khác để khư khư gìn giữ cái của mình, để bảo vệ sự ích kỉ của lòng mình.

Vật chất ư? Danh vọngđịa vị ư? Chúng chỉ là những bóng ma vật vờ xúi dục con ngườicám dỗ con người quên đi đạo đức và vô cảm đến nỗi thiếu sự quan tâm lẫn nhau một cách tàn nhẫn trong kiếp phù sinh này. Phật giáo chỉ cho chúng ta biết rằng tất cả các sự vật do nhân duyên tạo thành, cho dù đó là những vấn đề thuộc lãnh vực tâm lí như khổ, vui, yêu, ghét… đều bắt nguồn từ cảm giác chấp trước trong từng mảng đời của chúng ta mà có, hơn nữa tất cả những sự vật đều không có tính nhất định. Lòng tham dục của chúng ta thường xung đột với vô thường, đối nghịch với vô thường, khi vô thường đến chúng ta thường luyến tiếc và tức giận, tạo thành những nỗi khổ cả tinh thần lẫn thể xác. Rõ ràng quán chiếu định luật vô thường thì chúng tathể đạt được sự hoà bình và an lạc trong tâm hồn của chúng ta.

Tất cả sự vật đều chóng tàn phai, giống như những bong bóng nước trôi trên dòng sông, chúng tụ tán mong manh như lửa loè trên đá. Những sự vật đều nằm trong tiến trình của sự trở thành để rồi tan rã. Như thế một vật có tính chất tạm thời thì không thể cho chúng ta hạnh phúc thật sự, cũng không thể nhận chân ra được cái tôi, cái ngã, hay cái của tôi. Nếu nhận chân ra được điều này, chúng ta sẽ không còn chấp trước. Sự từ bỏ chấp trước nghĩa là chúng ta đang hướng đến con đường an lạc giải thoát.

Đối với người tu theo Phật, sự sống và cái chết thật vô cùng mau chóng, nó đến trong từng sát na, và chắc chắc nó sẽ đến trong một ngày nào đó, cho nên họ chọn con đường tỉnh giác và đón nhận.

Chúng ta hãy đọc một câu chuyện cổ tích của Ấn Độ nói về sự tỉnh giác về cái chết:

Xưa, có một đạo sĩ nổi tiếng cùng người đồ đệ. Đạo sĩ muốn gởi người đồ đệ của mình vào cung điện để học thiền định với nhà vua Janak. Người đồ đệ này không muốn đi, vì anh ta nghĩ rằng mình là một đạo sĩ xuất thân từ dòng dõi Bà-la-môn (Brahmin). Làm sao một vị vua thuộc giai cấp võ sĩ (Kshatriya) mà có thể dạy cho một đạo sĩ được. Nhưng thầy đã ra lệnh, người đồ đệ đành phải đi. Khi đến hoàng cung, anh ta thấy nhà vua sống một đời sống vô cùng xa hoa. Anh ta ấm ức, khởi lên thái độ phê phán trong lòng mình. Làm sao một con người như thế mà dạy một đạo sĩ. Anh ta vẫn làm lễ nhà vua. Vua Janak thấy thái độ của anh ta như thế bèn bảo rằng nếu anh ta muốn thì có thể ngày mai quay trở về. Nhưng trong hoàn cảnh như thế này thì vị đạo sĩ phải đồng ý ở lại đêm.

Vua Janak chăm sóc vị đạo sĩ rất chu đáo. Sau khi vị đạo sĩ dùng bữa và tắm rửa xong, nhà vua chính mình đưa vị đạo sĩ đến phòng ngủ. Có thể xem đây là một phòng ngủ sang trọngtiện nghi. Đạo sĩ nằm lên giường và chuẩn bị ngủ. Thoạt nhiên vị đạo sĩ thấy thanh kiếm được ở trên treo lơ lửng bằng một sợi chỉ mỏng manh. Chỉ cần một cơn gió nhẹ thổi qua thì cũng làm thanh kiếm có thể rớt xuống làm bị thương hoặc thậm chí đâm chết người.

Vị đạo sĩ đã trải qua một đêm dài trong trạng thái vừa sợ hãi vừa cảnh giác cực độ, vì anh ta nhận ra rằng nếu anh ta sơ suất quan sát thì trong nháy mắt thì sẽ bị mất mạng.

Sáng hôm sau, vua Janak hỏi đạo sĩ rằng anh ta có một đêm ngủ thoải mái chăng. Vị đạo sĩ liền nổi giận và hỏi rằng cho anh ta ngủ dưới một thanh kiếm tuốt trần như thế là có ý gì. Anh ta nói rằng anh ta hoàn toàn không ngủ được suốt đêm mặc dù đã rất mệt với chặng đường dài để đến đây.

Nhà vua Janak đáp rằng đây là bài học quí báu về thiền định mà ông ta nghĩ một đạo sĩ cần phải học. Một đạo sĩ cần phải cảnh giácquán sát tâm mình suốt đêm. Đó là vấn đề sống và chết đối với một đạo sĩ. Đây chính là bài học của nhà vua Janak. Vua Janak nói rằng mặc dù sống trong xa hoa và hưởng thụ nhưng ông ta vẫn luôn ý thức thanh kiếm đang treo lửng lơ trên đầu của mình. Thanh kiếm thì vô hình, nhưng nó có thật. Đó là cái chết kề cận với chính mình. Kể từ khi vua Janak luôn ý thức trong đầu mình về cái chết, ông ta đã từ bỏ cuộc sống xa hoa của mình. Bởi ông ta đã biết rõ rằng nó có thể đến từng phút giây; mà thực tế chắn chắn nó có thể đến vào một ngày nào đó. Theo cách này, nhà vua đã sống trong cung điện nhưng vẫn như một ẩn sĩ.

Đây là phương pháp đích thực cho chúng ta trong quá trình thực hành thiền định hoặc sống đối diện với chính nó. Bạn có thể tiếp tục không tỉnh giác nếu bạn nghĩ rằng bạn sẽ sống mãi. Nhưng đằng này bạn vẫn không tỉnh giác khi bạn biết rằng cuộc sống có thể chấm dứt bất kì lúc nào. Bạn phải luôn luôn tỉnh thứccảnh giác.” (Liên Như dịch)

Sống chết đường tơ, không có gì đáng phải bám víu, sống không phải vội vàn chụp dựt, sống không phải để rồi thoả mãn những gì mình có được, mà phải sống có trách nhiệm với chính mình, có trách nhiệm với mọi người và môi trường xung quanh, để khi một mai cái chết vẫy gọi thì chúng ta thấy nhẹ nhàng lúc ra đi. Đừng để lòng tham và ganh tị để rồi bỏ mặt những hậu quả do chúng ta và chính chúng ta làm ra. Hãy chia sẻ tình yêu thương với nhau, đừng mang trên lưng vết hận thù. Sống là để yêu thương, mở rộng lòng từ bi, thương yêu người giống như thương yêu mình; thấy ai đau khổ chính là mình đau khổ.

Thật vậy, Đại đức K. Sri Dhammananda nói: “Ðời sống mong manh, chết là điều chắc chắn. Ðó là câu châm ngôn nổi tiếng trong Phật Giáo. Biết rõ Chết mong manh và là một hiện tượng tự nhiênmọi người phải đương đầu, chúng ta không nên sợ cái chết. Nhưng tất cả chúng ta đều sợ chết vì không nghĩ về điều không tránh được. Chúng ta thích bám víu vào đời sống, vào xác thân và phát triển quá nhiều tham dụcluyến ái.” (Thích Tâm Quang dịch)

Vật chất, danh vọngđịa vị là những thứ luôn biến đổi, chúng là những thứ luôn bị vô thường chi phối, không có tính thật. Đã mang tính biến đổikhông thật thì không bao giờ mang lại hạnh phúc thật sự, vì khi chúng biến đổi thì chúng ta sẽ đau khổ. Nhưng làm thế nào để chúng ta thoát ra được sự giả dối và khổ đau này. Đức Phật dạy: “Các pháp vô thường, nếu có thể dùng trí huệ để quán chiếu thì có thể xa rời các khổ, đây là con đường thanh tịnh.” (Pháp Cú, kệ 277)

Để thấy được sống chết đường tơ, chúng ta phải luôn tỉnh giácquán sát sự kiện này và sống đối diện với chính nó. Mọi sự vật trên thế gian đều vô thường chóng vánh, không có gì đáng để tham chấp mà luôn tỉnh thức để buông bỏ, và luôn cảnh tỉnh mình bằng thanh kiếm lơ lững ở trên đầu với một sợi dây mỏng manh. Với suy nghĩ này, nhằm mục đích giúp chúng ta ngày càng phát huy lòng từ bi, sống hướng thiện, vị tha, chia sẻ và cảm ơn, đồng thời nhờ đó mà chúng ta trau dồi và hoàn thiện lí tưởng giải thoátđức Phật đã dạy.

T.T.C (Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Liễu Quán Huế)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1489)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 1939)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1765)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 1889)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1479)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2066)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1437)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1679)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1587)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1653)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1472)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2222)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 1917)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 1858)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1691)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2006)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1625)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1770)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 1978)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1516)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1762)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1732)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 1977)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1748)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1604)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1575)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1590)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1676)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 1956)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1545)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1507)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2030)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1785)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1594)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2138)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1784)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 1861)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2057)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2324)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2352)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 1887)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2325)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1695)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1724)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2055)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2585)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1482)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1445)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1605)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1433)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant