Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tây Tạng ngày nay

03 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 14847)
Tây Tạng ngày nay
TÂY TẠNG NGÀY NAY
Đoàn Xuân Hải

Vùng đất này được người đời gọi là “nóc nhà của thế giới” vì nó nằm quá cao so với mực nước biển. Người khác thì cho nó hai chữ “huyền bí” vì không hiểu hết được sự thâm sâu trong hành visuy nghĩ của người dân bản địa.

Hồi cuối thế kỷ 19, các nhà thám hiểm phương Tây đã thực hiện những chuyến khám phá vùng đất huyền bí Tây Tạng bằng đường bộ khá gian nan. Ngày nay, du khách đến Tây Tạng - một khu tự trị thuộc Trung Quốc - dễ hơn nhiều vì hệ thống giao thông thuận lợi với xa lộ, tàu cao tốc và đường hàng không. Tuy nhiên, sau khi đã có visa vào Trung Quốc, muốn lên Tây Tạng, bạn buộc phải có giấy phép đặc biệt do chính quyền sở tại cấp. Không có giấy phép đặc biệt, bạn sẽ bị từ chối bước vào vùng tự trị này.

 blank
Lhasa - Ảnh: Đ.X.H


Từ tháng 11 đến hết tháng 4 năm sau là khoảng thời gian người ta khuyến cáo bạn không nên đến Tây Tạng vì sự khắc nghiệt của thời tiết. Trong thời gian này, một số hoạt động văn nghệ, vui chơi giải trí ở Lhasa cũng ngừng hoạt động vì lượng du khách vắng vẻ, và cũng vì trời lạnh tê tái. Tốt nhất hãy đến đây vào mùa hè, thời tiết ấm áp hơn.


Theo lời mời của Công ty điện tử Samsung Vina, đoàn nhà báo chúng tôi đã làm một chuyến lữ hành đến Tây Tạng bằng đường hàng không. Tưởng di chuyển bằng máy bay (từ sân bay Tân Sơn Nhất) thì nhanh nhưng vất vả không kém vì phải transit ở Bắc Kinh, Thành Đô (thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên) rồi mới đến được Lhasa (thủ phủ của Tây Tạng). Khởi hành lúc 1 giờ sáng, ăn ngủ vật vờ trên máy bay mãi đến chiều tối mới đến được Lhasa. Từ Việt Nam đi qua Mỹ xem ra còn dễ chịu hơn.

Lúc hạ cánh xuống phi trường quốc tế Lhasa, qua ô cửa sổ máy bay, tôi thấy khoảng chục chiếc chiến đấu cơ phản lực “trùm mền” nằm dọc theo phi đạo. Có vẻ như đây là phi trường bán quân sự thì phải. Mang tiếng là phi trường quốc tế nhưng thực ra chỉ có duy nhất đường bay từ thủ đô Kathmandu của nước Nepal láng giềng đến Lhasa mà thôi. Ngày trước, từ phi trường vào đến trung tâm thủ phủ Lhasa mất cả tiếng đồng hồ vì phải đi vòng qua núi. Nay thì sự di chuyển bằng ô tô nhanh hơn nửa tiếng vì người ta đã xây đường hầm băng qua núi. Kể từ khi thực hiện chính sách “hướng về phía tây” của chính quyền trung ương, hệ thống hạ tầng cơ sở của Tây Tạng được cải thiện đáng kể.

Lhasa là một thung lũng nằm ở độ cao 3.650m, tứ bề được các dãy núi cao hơn 5.000m bao bọc. Không chỉ Lhasa, hầu hết Tây Tạng đều có địa hình núi non trùng điệp, tuyết phủ trắng xóa. Ngay cả đỉnh Fansipan của Việt Nam với độ cao 3.143m, được mệnh danh là “nóc nhà của Đông Dương”, vẫn thấp hơn mặt bằng của Tây Tạng. Với độ cao bình quân hơn 4.000m, có lẽ cả Tây Tạng nằm lọt thỏm giữa những tầng mây.

 blank

Nơi đất - trời giao thoa - Ảnh: Đoàn Xuân Hải

Lhasa rộng khoảng 550 km2, lớn hơn thành phố Buôn Ma Thuột (tỉnh Đắk Lắk) một chút, dân số khoảng nửa triệu người chiếm đa số là người Tạng, còn lại là người Hán và Hồi.

Tây Tạng nói chung và Lhasa nói riêng đều có thời tiết khắc nghiệt vì không khí loãng. Đầu tháng 11, ngay đêm đầu tiên lưu trú, chúng tôi đã chứng kiến bông tuyết rơi là đà trên phố. Thế nhưng đoàn nhà báo chẳng có ai dám tản bộ dưới bầu trời lãng mạn ấy vì lạnh thấu xương. Tôi đã từng trải qua cái lạnh 0 độ ở châu Âu và Mỹ, thậm chí -5 độ ở Bắc Kinh, nhưng cái lạnh 0 độ ở Tây Tạng hoàn toàn khác, nó có thể quật ngã bạn bất cứ lúc nào. Trong 3 ngày ở đây, mặc dù được trang bị bình oxy để thở, đoàn chúng tôi đã có người ói mửa, chảy máu mũi, môi khô nứt, mặt mày tái mét, ăn không được, ngủ chập chờn nửa tỉnh nửa mê, thậm chí có người chỉ muốn vào bệnh viện vì nghĩ mình… sắp chết đến nơi!

Ở Lhasa có một công trình kiến trúc nổi tiếng khắp thế giới: cung điện Potala. Người ta nói rằng nếu chưa viếng Potala thì coi như bạn chưa đến Tây Tạng, tựa như “bất đáo Trường Thành phi hảo hán” nói về chuyện du khách đến Bắc Kinh mà chưa leo lên Vạn Lý Trường Thành thì chưa biết gì về Trung Quốc vậy.

Kỳ 2: Potala linh thiêng

Di sản thế giới

Người Tạng hành hương đến Potala vì nơi đây thờ Phật, đồng thời là nơi ngự trị và an nghỉ của các Đạt Lai Lạt Ma (Dalai Lama) đã viên tịch.

Cung điện Potala bắt đầu được xây dựng vào năm 1645 dưới thời Đạt Lai Lạt Ma thứ 5, phải mất 50 năm mới hình thành quy mô như hiện nay gồm Hồng cung và Bạch cung, với tổng cộng 1.000 phòng. Công trình uy nghi này được UNESCO công nhậnDi sản thế giới vào năm 1994.

 blank

Hành hương lên cung điện Potala - Ảnh: Đoàn Xuân Hải

Chúng tôi đến viếng Potala vào một buổi sáng trời đẹp, nắng dịu dàng điểm xuyết bởi những hạt bông tuyết rơi nhẹ nhàng. Lhasa là một thung lũng được núi bao quanh. Giữa thung lũng có một ngọn đồi và người Tây Tạng đã xây dựng Potala trên ngọn đồi ấy, ở độ cao 3.600m so với mực nước biển, là cung điện cao nhất thế giới hiện nay. Muốn lên đến tầng trên cùng của cung điện - nơi linh thiêng nhất, bạn phải trải qua hơn 300 bậc thang.

Ước tính có hàng ngàn người đến viếng Potala mỗi ngày, đa số là người Tạng cùng một thiểu số du khách thập phương. Trong dòng người ấy, bạn dễ dàng nhận biết đâu là người Tạng, đâu là du khách do trang phục và nét mặt. Phần lớn người Tạng hành hương đến Lhasa đều cầm trên tay tràng hạt hoặc “Kinh luân cầu nguyện” (Prayer Wheel - một vật dụng tâm linh đặc trưng của người Tây Tạng), vừa đi vừa xoay (theo chiều kim đồng hồ) và thầm đọc kinh bằng tiếng Phạn. Chúng tôi hăm hở hòa theo dòng người hành hương chậm rãi bước bộ lên Potala. Sở dĩ phải bước chậm rãi vì ở vùng không khí loãng như Tây Tạng, leo hàng trăm bậc thang rất dễ bị hụt hơi. Quan sát thấy cứ lên hết một tầng, nhiều người phải dừng lại để… thở, kể cả du khách phương Tây, đoàn nhà báo chúng tôi cũng không phải ngoại lệ. Chỉ có người Tạng hình như không biết mệt khi di chuyển trên những bậc thang ấy. Cuộc sống gắn liền với núi đồi đã giúp cho họ có đôi chân dẻo dai nên đi lên Potala chỉ là “chuyện nhỏ”, chuyện lớn chính là đức tin.

Nơi an nghỉ của các Đạt Lai Lạt Ma

Lên cung điện Potala, người Tạng nào cũng tâm niệm phải đặt chân đến các tầng trên cùng vì nơi đó thờ Phật, nơi đặt kim tháp (mộ táng của các Đạt Lai Lạt Ma) và cũng là nơi ngự trị quyền lực chính trị và tôn giáo cao nhất của Tây Tạng trong quá khứ. Lúc ghé thăm phòng tiếp khách của Đạt Lai Lạt Ma, khoảng sân phía trước ghế ngồi của ngài có rất nhiều tấm vải lụa trắng của người hành hương gửi lại. Khi vừa đặt chân đến Lhasa, tôi cũng được anh chàng hướng dẫn viên du lịch người Tạng tặng cho một chiếc khăn như vậy, ý nghĩa của nó là để chúc phúc.

 blank

Người Tạng hành hương đến Lhasa cầm trên tay “Kinh luân cầu nguyện” -

Ảnh: Đoàn Xuân Hải

Sự uy nghilinh thiêng của cung điện Potala khiến người hành hương phải cúi đầu bái lạy, những vị khách lạ cũng không dám làm điều càn quấy. Potala sở hữu vô số hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa lẫn kinh tế, trong đó phải kể đến mộ táng của Đạt Lai Lạt Ma đời trước được làm bằng vàng. Khi đế quốc Anh xâm chiếm Ai Cập, họ đã rinh về mẫu quốc khá nhiều hiện vật thời cổ đại. Trong bảo tàng Anh quốc ở London hiện nay có hẳn một khu vực riêng để trưng bày về nền văn minh Ai Cập, trong đó có cả một ngôi mộ bằng đá hoa cương khá to của Pharaon. Vậy mà lúc xâm chiếm Tây Tạng qua ngả Ấn Độ, người Anh đã không đụng đến mộ táng bằng vàng của Đạt Lai Lạt Ma. Trải qua bao cuộc thiên tai địch họa, kể cả trong cơn bão táp “Cách mạng Văn hóa” (1966-1969) dưới thời Mao Trạch Đông, cung điện Potala vẫn bảo tồn gần như nguyên vẹn những gì hiện hữu bên trong lẫn cấu trúc bên ngoài. Các công trình kiến trúc đặt trên nền đá như Potala có độ bền vững khá cao. Khu Mahattan ở thành phố New York của Mỹ cũng được xây trên một vỉa đá cứng như vậy.

Người ta đã xây dựng một khu hành chính khác để các quan chức và nhân viên làm công việc điều hành Lhasa, Potala vì thế đã không còn là trung tâm quyền lực về chính trị của Tây Tạng nữa. Cung điện ấy giờ đây biến thành viện bảo tàng. Thế nhưng đối với người Tây Tạng, hình như cung điện Potala (hay bảo tàng Potala) vẫn hiện hữu với tất cả sự linh thiêng, sùng bái trong tâm tưởng của họ. Bất kể thời tiết ra sao, những đoàn lữ khách hành hương từ khắp mọi miền vẫn đổ về Potala mỗi ngày, họ đến để minh chứng lòng thành với Phật và có lẽ với một ai đó vì nguyên nhân này khác đã không còn hiện hữu nơi đây.

Kỳ 3: Lạt maHoa hồng

Ở ngoại ô thủ phủ Lhasa có một tu viện mang tên Sera Monastery mà nếu đến thăm, bạn sẽ chứng kiến một trong những phương pháp tiếp thu kiến thức độc đáo của người Tây Tạng.

Sera Monastery nằm dưới chân núi đá khô cằn, ngoại ô Lhasa.

Tu viện này thuộc phái Mũ Vàng (Gelugpa - Hoàng Mạo), là 1 trong 3 tu viện quan trọng bậc nhất của Tây Tạng, được xây dựng vào đầu thế kỷ 15. Sera Monastery còn được biết đến với tên gọi Tu viện Hoa hồng, bởi chữ Sera trong tiếng Tạng có nghĩa là hoa hồng, vì khi khởi công xây dựng tu viện vào năm 1419, nơi đây tràn ngập hoa hồng dại. Một khu đồi núi cằn cỗi mà lại có hoa hồng mọc lên, tô điểm thêm cho sự kỳ bí của tu viện này. Thêm nữa, trên một đất nước rộng mênh mông như thế mà các bậc đại sư thời xưa lại chọn khu đất có hoa hồng để xây tu viện, chắc không phải ngẫu nhiên.

blank

Vườn tranh luận - Ảnh: Đoàn Xuân Hải

Tu viện Sera được biết đến như là Trường đại học Phật giáo của Tây Tạng. Khu vực này khá rộng, gồm 3 trường: Sera Mey Dratsang (giáo dục kiến thức cơ bản), Sera Jey Dratsang và Ngagpa Dratsang (đào tạo Lạt ma phái Mũ Vàng có trình độ tương đương cử nhântiến sĩ Phật học), tu sinh phải học và thi khoảng 300 loại kinh kệ, chưa kể các môn khoa học khác. Giống như các trường đại học trên giới, tu viện Sera cũng có ký túc xá dành riêng cho tu sinh. Đào tạo Lạt ma chỉ dành cho nam giới từ 16 tuổi trở lên, do đó không hề có nữ tu sinh trong các tu việnTây Tạng. Hiện tại muốn vào bên trong tu viện, bạn phải trình giấy thông hành đặc biệt cho đồn cảnh sát đặt ở đầu đường vào.

Vào những buổi chiều, trong vòng từ 1 - 2 tiếng đồng hồ, dưới bóng râm của những tán cây có tuổi thọ hàng trăm năm tuổi, các tu sinh của tu viện Sera tụ tập lại (giống như giờ ra chơi) để trau dồi kiến thức trong không gian gọi là Vườn tranh luận với mặt sân toàn đá cuội. Người đứng đập hai bàn tay vào nhau nghe “chát” một cái, uốn hai cánh tay nhẹ nhàng như một vũ công, rồi hỏi người ngồi một câu gì đó. Người ngồi trả lời, người đứng hỏi tiếp với cùng điệu bộ ấy.

Có thể xếp Vườn tranh luận của tu viện Sera vào loại sôi động nhất trong hệ đại học trên toàn thế giới. Qua lời giải thích của anh hướng dẫn viên du lịch người Tạng, sự tranh luận ấy được thể hiện bằng kiến thức phổ thông hoặc thâm sâu tùy theo nội dung câu hỏi và câu trả lời của các tu sinh, ví dụ: Người hỏi: Lá cây có màu gì? Người trả lời: Màu xanh. Hỏi tiếp: Tại sao lá cây có màu xanh? Trả lời: Do diệp lục tố tạo nên. Hỏi tiếp: Tại sao lá cây chuyển sang màu vàng? Trả lời: Đó là dấu hiệu của sự chuyển mùa. Hỏi tiếp: Tại sao lá rụngTrả lời: Là do lá chết. Hỏi tiếp: Tại sao lá chết mà cây không chết? Trả lời... Cứ như thế, “giờ ra chơi” giúp các tu sinh “truy bài” nhau đi đến tận cùng của tri thức, một cách giúp họ lĩnh hội những tinh tú của nhân loại trong vũ trụ bao la trước khi tốt nghiệp thành Lạt ma.

Cuối buổi tranh luận, tất cả tu sinh đội mũ vàng lên tập trung lại để các bậc đại sư giải thích những câu hỏi có phần bí hiểm hoặc câu trả lời chưa thỏa đáng, rồi đưa ra lời giải cuối cùng cho một câu hỏi chưa có lời giải hoặc trả lời chưa trọn vẹn, coi đó như chân lý để các tu sinh nạp thêm vào kho tàng kiến thức của mỗi người.

blank

Du khách tham quan tu viện Sera - Ảnh: Đoàn Xuân Hải 

Trước cuộc chính biến xảy ra vào năm 1959, tu viện này có hơn 5.000 tu sinh, ngày nay con số ấy chỉ còn khoảng 800 người. Cả Lạt matu sinh theo học ở tu viện Sera được đài thọ kinh phí dạy và học (giống như tiền lương cho giảng viên và học bổng cho sinh viên) cho nên không phải muốn vào học là được, phải trải qua một quá trình “xét tuyển” hạn chế và khắt khe. Không phải tất cả tu sinh đều trở thành Lạt ma, những ai không hội đủ điều kiện trong quá trình theo học tại tu viện đều có thể hồi gia hoặc ra khỏi trường, nhập thế để trở thành một con người khác.

Sau khi tốt nghiệp và hành đạo, Lạt ma sẽ chọn thời điểm để di hành lên chốn thâm sơn cùng cốc, chọn cho mình một cái hang để khổ luyện trong 3 năm, 3 tháng, 3 tuần, 3 ngày. Tại sao không chọn số 2 hoặc số 4, mà phải là số 3 âu cũng là điều bí hiểm. Nếu tính đủ 1 năm 365 ngày và tháng đủ 30 ngày thì quá trình “hành xác khổ luyện” ấy diễn ra đúng 1.209 ngày. Trong quá trình ngồi thiền nơi hang núi, các Lạt ma rèn luyệnđạt được một số khả năng siêu phàm. Một trong những điều siêu phàm như vậy, theo nghiên cứu của một số nhà Tây Tạng học, là khả năng giao tiếp giữa vị Lạt ma này với vị Lạt ma nọ ngồi cách nhau vài quả núi, tựa như thần giao cách cảm. Với thời tiết khắc nghiệt như Tây Tạng, ăn uống kham khổ và điều kiện sinh hoạt ở mức tối thiểu, chừng ấy ngày ngồi thiền một mình ở chốn hoang vu giá lạnh để đắc đạo xuống núi đủ thấy cơ thể ấy, tinh thần ấy, lý trí ấy bền vững thế nào. Người phàm như tôi, không cần đến 3 tuần, chỉ sống 3 ngày như vậy thôi chắc còn lại cái xác không hồn, nói cách khác sẽ trở thành “linh hồn tượng đá”…

Kỳ 4: Hai cảnh đời chốn tâm linh

Ở Lhasa có một ngôi chùa nằm lọt thỏm trong khu phố cổ, rất linh thiêng, đó là chùa Đại Chiêu (Jokhang Temple) - cũng là nơi hành hương không thể thiếu giống như cung điện Potala đối với người Tây Tạng theo đạo Phật.

Phía trước mặt tiền của chùa là một quảng trường mang tên Bakhor với nhiều cửa hiệu buôn bán náo nhiệt. Ở Lhasa người ta dùng song ngữ Tạng - Hoa trên các biển hiệu quảng cáo, một số ít cơ quan có thêm tiếng Anh, ra xa lộ thì chỉ có bảng hướng dẫn lưu thông bằng tiếng Hoa mà thôi. Bakhor là một trong hai quảng trường trung tâm của Lhasa, quảng trường kia nằm đối diện cung điện Potala, có một đại lộ mang tên Bắc Kinh chạy ngang.

 blank

Tượng vua Gampo và hoàng hậu Văn Thành 

Chùa Đại Chiêu được vua Songtsan Gampo (Tùng Tán Cán Bố) xây dựng vào thế kỷ 7 (năm 647). Gampo là người sáng lập đế quốc Tây Tạng (cùng thời với nhà Đường của Trung Hoa cổ đại), đồng thời là vị vua có công chấn hưng Phật giáo Mật Tông trên cao nguyên này. Chùa Đại Chiêu linh thiêng nhất đối với người dân Tây Tạng, được UNESCO đưa vào danh sách Di sản thế giới. Vua Gampo có 3 bà vợ: Đệ nhất hoàng hậu là công chúa Bhrikuti Devi của Vương quốc Nepal; Đệ nhị hoàng hậu là công chúa Văn Thành (tiếng Tạng là Munchang Kongcho), cháu gái của vua Đường Thái Tông; Đệ tam hoàng hậu là Trimoyen Dongsten (người Mông Cổ). Giống như những cuộc “hôn nhân chính trị” của các vương triều xưa, sự kết hôn của vua Songtsan Gampo thời bấy giờ với người của các nước láng giềng nhằm thắt chặt “tình thông gia hữu hảo”, tránh lâm vào cảnh chiến tranh. Ở tỉnh Tứ Xuyên giáp với Tây Tạng, có một bức tượng (không biết dựng lên vào năm nào) chân dung vua Gampo và hoàng hậu Văn Thành sánh đôi cao to, đứng trước một cổng thành cổ, như minh chứng cho mối tình bất diệt Tạng - Hán thời xa xưa.

Cùng với vua Gampo, hai hoàng hậu Devi và Văn Thành được tôn sùngTam Thánh Mật Tông GiáoTây Tạng. Khi “về nhà chồng”, cả đệ nhất và đệ nhị hoàng hậu đều mang theo tượng Phật bằng vàng ròng (như của hồi môn) đặt vào chùa Đại Chiêu. Trong cuộc “Cách mạng Văn hóa” ở Trung Quốc, tượng Phật của hoàng hậu Devi đã bị phá nát. Trước tình cảnh ngặt nghèo ấy, Thủ tướng Chu Ân Lai đã thành công khi can thiệp với chính quyền trung ương Trung Quốc bảo tồn tượng Phật Thích ca Mâu ni của công chúa Văn Thành tránh bị phá hủy. Tượng Phật của hoàng hậu Devi hiện nay nằm chính diện trong chùa Đại Chiêu là do được phục chế vào thập niên 1980, đúng như nguyên bản.

 blank

Khu chợ bán hàng lưu niệm bên ngoài chùa Đại Chiêu - Ảnh: Đoàn Xuân Hải

Số lượng khách hành hương đến cung điện Potala và chùa Đại Chiêu ước tính bằng nhau. Người Tây Tạng đến chùa Đại Chiêu cũng là dịp để một lần trong đời biết được điều huyền bí về bản thân mình. Điều huyền bí ấy là, sau khi lễ Phật, khách hành hương sẽ được các nhà sư hướng dẫn nhìn vào một ô cửa nhỏ để biết được vận mạng của mình ở kiếp sau. Du khách nước ngoài thường bỏ qua công đoạn này vì hai lẽ: Thứ nhất, bạn phải là tín đồ Phật giáo mộ đạo, có niềm tin mãnh liệt vào sự linh thiêng của chùa; Thứ hai, bạn phải kiên nhẫn xếp hàng chờ đến lượt vì số lượng người muốn trải qua công đoạn này… quá đông. Tuy đông người nhưng mọi nghi lễ trong chùa Đại Chiêu đều diễn ra trật tự, nền nếp. Chỉ có điều, giống như nội quy ở cung điện Potala, du khách không được phép chụp hình, quay phim bên trong chùa Đại Chiêu. Đến một vài điểm tham quan ở Tây Tạng, bạn chỉ được tự do ghi hình khi đang ở không gian bên ngoài, thấy ánh nắng mặt trời, mây lượn cùng gió và chim chóc tung bay.

Bên ngoài chùa Đại Chiêu là cả một không gian náo nhiệt. Phía trước chùa có khá đông tín đồ Phật giáo hướng về mặt chính của chùa bái lạy không ngơi nghỉ theo tư thế nằm úp mặt xuống đất. Nghe nói họ phải thực hiện đủ 100.000 lạy như thế trong đời mình, quả là đáng nể. Sự náo nhiệt ấy còn do khu chợ bán hàng lưu niệm tạo ra. Chủ quầy hàng có cả người Tạng và Hán, rất ít người nói được tiếng Anh. Bản chất người Tây Tạng xưa nay vốn hiền lành, thật thà chất phác, ấy vậy mà khi mua hàng tại đây, hướng dẫn viên du lịch nhắc chúng tôi rằng hãy tích cực… trả giá. Ví dụ: người bán nói món hàng ấy 100 đồng, bạn hãy mạnh dạn trả còn 20 đồng thôi, nếu vì “lịch sự” trả giá xuống 50% coi như “dính chấu”.

Quảng trường Bakhor có lẽ là nơi nhộn nhịp nhất thành phố Lhasa với khá đông người hành hương lẫn du khách. Tại đây, cơ quan chức năng chuẩn bị nhiều bình xịt màu đỏ mà thoạt nhìn có người nghĩ là bình ô xy, nhằm giúp cho những du khách khó thở vì không khí loãng. Nhưng rốt cuộc mọi người mới phát hiện đó không phải bình ô xy mà là bình... cứu hỏa. Những chiếc bình này sẽ được dùng để dập tắt đám cháy do ai đó vô tình hay cố ý gây ra ở quảng trường. Rất may là không có đám cháy nào xảy ra trong suốt thời gian chúng tôi hiện diện nơi đây.

Khi máy bay cất cánh rời thủ phủ Lhasa, có nhà báo nói vui đó là “cuộc đào thoát khỏi Tây Tạng” vì thời tiết ngày càng lạnh hơn, lưu trú thêm vài ngày nữa chắc… bỏ mạng. Hài hước vậy thôi chứ Tây Tạng xưa nay vẫn là vùng cao nguyên rất đáng để bạn đến tham quan một lần trong đời, và sẽ không uổng công.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 784)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 750)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 686)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 718)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 766)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 704)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 743)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 793)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 937)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1408)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 955)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 991)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 748)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 758)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 625)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1287)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1167)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1134)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1086)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1197)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1142)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1227)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1150)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1032)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1155)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1124)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1237)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1132)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1206)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1195)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1171)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1155)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1740)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1142)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1174)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1286)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1171)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant