Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Người mù sờ voi

14 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 14982)
Người mù sờ voi
Người mù sờ voi
A Lan Nhã

Thuở xưa, tại thành Savatthi, có một ông vua nọ muốn bày trò vui, ra lệnh nhóm tất cả những người sanh ra đã mù trong thành lại một chỗ, bảo chia họ thành nhiều nhóm, rồi sai đưa một con voi ra.

- “Đây là con voi!”, người hầu của vua bảo với những người mù.

Với một số người mù, ông ta cho sờ vào đầu con voi; một số người khác thì được sờ vào lỗ tai voi; số khác nữa thì cho sờ vào ngà voi; rồi thì vòi, chân, lưng, đuôi, lông đuôi voi... cũng được những nhóm khác sờ nắn - mỗi nhóm sờ một thứ.

Xong, vua đến các người mù ấy, hỏi: “Này, các ông đã thấy con voi chưa?”. “Thưa Đại vương, chúng tôi đã thấy con voi!”, những người mù trả lời. “Vậy các ông hãy nói cho ta nghe xem con voi như thế nào?”, vua bảo.

Nhóm người sờ đầu voi nói: “Thưa Đại vương, con voi giống với cái ghè!”. Nhóm người sờ tai nói: “Con voi giống cái rổ sàng gạo!”. Nhóm sờ ngà nói: “Con voi giống với cái lưỡi cày!”. Cứ như vậy, nhóm sờ vòi nói con voi giống cái cày; nhóm sờ chân nói giống cái cột; nhóm sờ lưng bảo như cái cối; nhóm sờ đuôi bảo y như cái chày; nhóm sờ lông đuôi nói con voi giống với cái chổi!

- “Con voi như các ông nói không phải là con voi. Con voi phải như chúng tôi nói mới đúng là voi!”, những nhóm người mù bắt đầu tranh cãi, ai cũng cho nhóm mình đúng, còn nhóm kia sai. Tranh cãi bằng miệng không ngã ngũ, họ xoay ra đánh nhau bằng tay. Ông vua nọ rất lấy làm hoan hỷ!

(Kể theo Kinh Tiểu bộ, tập I, Kinh Phật tự thuyết, chương VI - phẩm Sinh ra đã mù. HT.Thích Minh Châu, dịch)

Bàn thêm:

Trên đây là một trong những câu chuyện ngụ ngôn nổi tiếng bậc nhất, không chỉ trong kinh Phật mà trong kho tàng văn học dân gian nhiều nước, như: Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam... Câu chuyện cũng đến Mỹ qua lối kể bằng thơ của nhà thơ - nhà triết lý nổi tiếng John Godfrey Saxe (1816-1887), với tên gọi “The Blind Men and the Elephant” (Những anh mù và con voi), hoặc “Six Men of Indostan” (Sáu anh chàng ở xứ Indostan).

Dị bản tiếng Việt của câu chuyện trên được tuyển in trong sách giáo khoa Ngữ văn cấp THCS, với tựa đề “Thầy bói xem voi” - do Trương Chính kể. So với bản kinh Pali (và bản kể trong truyện cổ dân gian Ấn Độ) thì dị bản tiếng Việt có phần hóm hỉnh, hấp dẫn hơn, với một số chi tiết khác biệt (bởi góc nhìn và văn hóa), điển hình như người mù ở đây được xác định hẳn là “thầy bói mù”, trong bối cảnh “nhân buổi ế hàng”. Sự khác biệt này hẳn nhiên dẫn đến cảm thức và cách tiếp nhận triết lý câu chuyện cũng khác đi phần nào so với bản kể Ấn Độ (mà ở đây chúng ta không đi sâu tìm hiểu).

Duyên khởi của ẩn dụ trên được tóm kể như sau: Một thời, Thế Tôn trú ở Savatthi. Bấy giờ có một số đông các nhóm ngoại đạo vào thành khất thực. Nhóm người này có sự kham nhẫnsở thích khác nhau, y cứ nương tựa vào quan điểm khác nhau. Một số cho rằng: “thế giới thường còn”; số khác không đồng ý, bảo: “thế giới là vô thường”; số khác nữa lại bảo: “thế giới là có biên tế”; số nữa lại khẳng định: “thế giới là vô biên” v.v... Nhóm nào cũng cho rằng: “chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng”, “... như thế này không phải pháp, như thế này là pháp”. Họ cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi.

Các Tỳ kheo đi khất thực nghe được, về bạch lại với Đức Thế Tôn. Ngài dạy: “Này các Tỳ kheo, các du sĩ ngoại đạo là những người mù, không có mắt, không biết mục đích, không biết phải mục đích, không biết pháp, không biết phi pháp. Do họ không biết mục đích, do họ không biết không phải mục đích, do không biết pháp, do không biết phi pháp, họ sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh...”. Nhân đó, Ngài đưa ra thí dụ về Những người mù sờ voi để làm rõ và làm sinh động thêm vấn đề.

Duyên khởi câu chuyện cho chúng ta thấy rằng, cốt yếu của ẩn dụ này chính là vấn đề nhận thức - cố chấp cho nhận thức của mình là đúng, trong khi thực sự nó là sai, bị trói buộc bởi nhận thức hạn hẹp theo kiểu “ếch ngồi đáy giếng”, hay bị tướng trói buộc mà không nhận ra thể.

Mục đích của một hành giả là hướng đến con đường giải thoát, giải quyết rốt ráo cái khổ bằng cách nhận ra nguyên nhân của khổ và con đường diệt khổ chứ không phải tranh luận về thế giới này thường hay vô thường, sinh mạng và thân thể là một hay là khác, sau khi chết Như Laitồn tại hay không tồn tại... Sự tranh luận đó thực chất chỉ là hý luậnđau khổ chứ không đem lại chút ích lợi nào. Giả như một người bị trúng tên, việc đầu tiên và cần kíp của anh ta là cứu chữa chứ không phải truy xét. Do vậy, chỉ khi nào có đầy đủ chánh kiếnchánh tư duy, hành giả mới hiểu rõ đâu là pháp, đâu là phi pháp. Hiểu và hành như thế mới thấu đạt được mục đích, mới đi đúng con đường.

Câu chuyện trên còn cho ta thấy một vấn đề mang tính lịch sử, xã hội: sự xung đột giữa các tư tưởng, học thuyết - tôn giáo lẫn chính trị - luôn luôn dẫn đến sự bất hòa, chia rẽ và tranh đấu. Chúng ta đều thấy rằng, từ xưa đến nay, rất nhiều học thuyết đã ra đời, tồn tại trong một thời gian rồi bị xô ngã. Người theo học thuyết, quan điểm nào cũng cho rằng mình nhất, mình đúng, phần còn lại là sai, là thù, mà hậu quả của nó là xung đột, chiến tranh, kể cả thánh chiến..., gây nên bao cảnh tang thương, đẫm máu. Vì lòng tham, vì chấp thủ, người ta đã trở nên “mù” một cách nguy hại như thế.

Trên bình diện khoa học, mặc dù ngày nay khoa học đã tiến bộ vượt bậc, nhưng người ta vẫn chưa “sờ” được đến cái tận cùng của vật chất lẫn tâm thức. Dù kính viễn vọng có nhìn xa đến đâu cũng không thể thấy được cả tam thiên đại thiên thế giới; kính hiển vi có nhìn sâu đến mấy cũng không thể soi được tổng thể của vạn pháp. Cho nên người ta phải dựa trên những quan sát bộ phận để suy đoán cái tổng thể, chẳng khác nào những người mù sờ voi. Ngay như Blaise Pascal (1623-1662), một nhà khoa học, triết học lừng danh, cũng phải thốt lên: “Làm thế nào để một bộ phận có thể nhận thức được cái toàn thể?” (How can a part know the whole?). Câu nói đó chính là sự bất lực của ông khi muốn hiểu thấu rốt ráo bản thể của vạn pháp, song cũng là một sự thúc đẩy mong muốn tìm tòi, mong muốn vươn đến cái hoàn thiện của con người.

Ở một khía cạnh gần gũi hơn của cuộc sống, chúng ta cũng dễ dàng thấy được rằng chúng ta đang tiếp xúc với thực tại theo kiểu những người mù sờ voi. Không ai dám chắc rằng mình hiểu hết người bạn thân nhất, thậm chí ngay cả bản thân mình. Khi tiếp xúc một người hay một vật, chúng ta thường bị giới hạn bởi kiến thứckinh nghiệm của bản thân, nên những nhận định, đánh giá của chúng ta về người ấy, vật ấy cũng hết sức phiến diện. Duy thức học gọi sự “ô nhiễm” trong nhận thức này là “đới chất cảnh” và cái chấp đó là “biến kế sở chấp”. Tất cả đều do cái tâm phân biệt của chúng ta mà ra, khiến chúng ta không tiếp xúc được với “tánh cảnh” - cái cảnh chân thật, cái “tổng thể”. Do vậy, không nên vội vã khi nhận xét về một người, một vấn đề!

Xin được kể câu chuyện có thật như sau: một người Việt sinh ra và lớn lên ở Lào khoe với tôi rằng anh đã được trở về thăm quê cha đất tổ. Anh đi đường bộ từ Lào, băng qua Campuchia rồi đến Việt Nam, ở chơi tại TP.HCM một tuần trước khi về nước. Nhận xét của anh là: phong cảnh Việt Nam thật đẹp, nhưng tiếc rằng Việt Nam chẳng có lấy một ngọn núi nào! Nhận xét đó khiến tôi bất ngờ, nhưng tôi cũng kịp mỉm cườinhận ra anh chỉ tiếp xúc với một phần nhỏ của Việt Nam - một phần nhỏ thôi chứ chưa phải là một Việt Nam thật sự. Kiểu như người ta nói rằng, một nửa ổ bánh mì vẫn là bánh mì, nhưng một nửa của sự thật không phải là sự thật!

Hãy thực tập tiếp xúc mọi thứ bằng chánh niệm, chúng ta sẽ dần dần làm cho đôi mắt mình sáng ra!

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 782)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 750)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 686)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 718)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 766)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 704)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 742)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 793)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 937)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1408)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 955)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 991)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 748)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 758)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 625)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1287)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1167)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1134)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1086)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1197)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1142)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1227)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1150)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1031)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1155)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1124)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1236)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1132)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1206)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1194)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1171)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1154)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1740)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1142)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1174)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1286)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1171)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant