Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ông chủ Facebook "hành Bồ-tát hạnh"

12 Tháng Tư 201200:00(Xem: 12398)
Ông chủ Facebook "hành Bồ-tát hạnh"
ÔNG CHỦ FACEBOOK
“HÀNH BỒ TÁT HẠNH”
Thích Tâm Hạnh

mark-zuckerbergChàng trai chủ nhân của mạng xã hội Facebook 26 tuổi này đã làm cả thế giới chú ý tới không chỉ vì trí tuệtài năng trẻ phục vụ số đông của anh, mà anh còn là hiện tượng của sự dấn thân vào những công việc khó làm – hiến tài sản làm từ thiện – ở độ tuổi và sự nghiệp đang phất. Phật giáo xem sự dấn thân như thế là bồ-tát hạnh, là công hạnhlý tưởng lợi tha của người Phật tử Đại thừa. Nhìn một Phật giáo phi hình thức, người Phật tử có thể thấy được vai trò đích thực của tư tưởng Phật giáo không nằm ở tôn giáo, mà nằm ở hành động. Tôi xin thông qua nhân vật Zuckerberg để làm sáng tỏ tư tưởng này của Phật giáo.

Việc xem tỷ phú Zuckerberg “phát bồ-đề tâm, hành bồ-tát hạnh” nghe ra có vẻ khó chấp nhận đối với người Phật tử, bởi những khái niệm này vừa là thuật ngữ vừa là lý tưởng của Phật giáo Đại thừa lại được gán cho một chàng trai người Mỹ gốc Do Thái. Nhưng kỳ thật, ‘bồ-đề tâm’ cũng như ‘bồ-tát hạnh’ không mang một ý nghĩa tín ngưỡng tôn giáo gì cả. Nó biểu đạt một lối sống của người đi tìm kiếm hạnh phúc thông qua sự nghiệp tạo dựng hạnh phúc cho người khác.

Bồ-đề tâm phát xuất từ chữ ‘bodhicitta’, là một thuật ngữ của Phật giáo Đại thừa. ‘Bồ-đề’ là phiên âm của chữ ‘bodhi’ (tiếng Pali/Sanskrit), nghĩa là ‘giác’, ‘giác ngộ’, ‘tuệ giác’, tức là hiểu biết các pháp một cách rốt ráo, không có chấp thủBodhi là quả vị giác ngộ tối thượngđức Phật đã chứng đắc dưới gốc cây Assattha mà sau đó cây này được gọi là cây Bodhi (Bồ-đề). Bồ-đề tâm (bodhicitta) do đó có thể được hiểu là tâm giác ngộ. Đối với chư Phật, nó là thực tại; còn đối với chúng sanh, nó cần phải được phát huy, cho nên được gọi là ‘phát tâm bồ-đề’. Người phát tâm bồ-đề cần hiểu rõ rằng bồ-đề sẵn có trong mỗi chúng sanh và sẽ hiện rõ khi màn vô minh được vén lên. Điều này muốn nói đến tánh giác trong mỗi chúng sanh. Trong văn học Phật giáo Nguyên thủy (Pali), từ tương đương của bồ-đề tâm có lẽ là ‘pabhassara citta’, nghĩa là ‘tâm sáng chói’. Kinh Tăng Chi chép: “Tâm này, này các Tỷ-kheo, là sáng chói, nhưng bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào” (A.i, 9). Như vậy, phát tâm bồ-đề có thể được hiểu là hướng tâm đến sự thanh tịnh sáng chói vốn có (của tâm), và cũng tức là hướng tâm đến sự giác ngộ bồ-đề (bodhi).

Với ý nghĩa Bồ-đề như vậy thì tỷ phú Zuckerberg phát bồ-đề tâm như thế nào? Trước hết chúng ta cần xác định rằng Phật giáo chỉ quan tâm đến con người và tâm người, mà không có một sự phân biệt nào liên quan đến giai cấp, sắc tộc, tôn giáo, v.v. Và hành động hay nghiệp (karma) được xem là chủ trương của Phật giáo với mục đích là làm thanh tịnh ba nghiệp thân, khẩu, ý (việc làm, lời nói, ý nghĩ). Đây là con đường đưa đến sự đoạn tận tham, sân, si, thành tựu quả vị bồ-đề. Nói cách khác, quả vị bồ-đề có thể chứng đắc nếu hành trì đúng pháp (tức là làm thanh tịnh ba nghiệp, đoạn tận tham, sân, si), mà không tùy thuộc vào một quan điểm hay danh xưng nào. Trung Bộ Kinh, số 126, nói rằng “dù có nguyện vọng hay không, việc hành trì Phạm hạnh một cách chánh đáng thời đạt được quả vị.” Với chủ trương hành động như thế, tỷ phú Zuckerberg cũng có thể không ngoại lệ, và có lẽ đang đi trên đạo lộ ấy.

Như đã nói, chướng ngại của bồ-đề chính là vô minh và các cấu uế từ bên ngoài vào, được hiển thị qua thân, khẩu, ý. Và Zuckerberg dường như đang thăng hoa cuộc sống khi từng bước vén màn vô minhbuông bỏ các cấu uế ngoại lai ngang qua những việc làm của mình. Quả thực, mức độ hạnh phúc hay khổ đau của con người tùy thuộc ít hay nhiều vô minhcấu uế ngoại lai ấy.[1] Càng ít vô minh (tức trí tuệ càng nhiều) chừng nào thì người ta càng dễ dàng buông bỏ những cấu uế ngoại lai chừng ấy, và ngược lại.

Có thể Zuckerberg không hề biết hay nghĩ đến danh xưng ‘bồ-đề’ hay ‘chánh giác’ gì cả, nhưng những thăng hoa hạnh phúc trên đạo lộ buông bỏ của anh (mà người Phật tử gọi là đạo lộ đưa đến bồ-đề) thì không thể phủ nhận. Việc Zuckerberg dấn thân làm từ thiện là một biểu hiện của sự buông bỏ như thế, và đặc biệttìm thấy hạnh phúc thông qua việc xây dựng hạnh phúc cho người khác. Như vậy là anh đã phát bồ-đề tâm và hành bồ-tát hạnh (nói theo ngôn ngữ Phật học) trong ý nghĩa đích thực của nó mà không cần một danh xưng nào hết. Tuy nhiên, con đường đạt đến đích bồ-đề theo Phật giáo Đại thừa là một hành trình dài và đòi hỏi một tâm vị thakiên định, những yếu tốhiện tại ít nhiều anh đang có.

Khái niệm “Bồ-tát hạnh” có nguồn gốc từ văn học Phật giáo Nguyên thủy, được minh họa rõ nét nhất qua tập Bổn Sanh (Jātaka –Chuyện Tiền Thân Đức Phật). “Bồ-tát” trong thời kỳ văn học này là danh xưng được sử dụng chỉ cho đức Phật trong nhiều kiếp trước, “khi Ngài chưa thành Phật, còn là Bồ-tát”. Qua đó, Bồ-tát được thấy đã sống trong nhiều kiếp dưới nhiều hình thức khác nhau, không chỉ làm người mà còn làm chim, làm thú… Điều đáng quan tâm là, dù ở trong sanh loại nào, Ngài đều thể hiện một tính cách thông minh, năng độngsáng tạo trong cách ứng xử để bảo vệ chân lýlợi ích cho số đông. Có nhiều mẩu chuyện cho thấy Ngài đã hy sinh thân mạng của mình vì sự bình anhạnh phúc của đồng loại. Tất cả những việc làm này của Ngài được gọi là “bồ-tát hạnh” có đủ trí tuệtừ bi, và là tấm gương đạo đức gần gũi với con người. Khái niệm “bồ-đề tâm” chưa xuất hiện trong thời kỳ văn học này.

Trong Phật giáo của thời kỳ sau, bồ-tát hạnh được ứng dụng một cách linh hoạt như là tư tưởng quan trọng của Đại thừa. Người Phật tử Đại thừa hành bồ-tát hạnh dường như muốn noi theo những việc làm mà chính đức Phật đã làm khi Ngài còn là Bồ-tát, chứ không phải noi theo những giáo pháp được Ngài thuyết giảng sau khi Ngài thành Phật. Họ nhận thức rằng đức Phật đã từng luân chuyển trong thế giới luân hồi như bao nhiêu chúng sanh khác, nhưng nhờ những công hạnh như thế Ngài mới chứng được quả vị Bồ-đề. Trên cơ sở đó, ai cũng có khả năng thành tựu bồ-đề nếu họ thực hành bồ-tát hạnh như Ngài.[2] Người Phật tử Đại thừa hành bồ-tát hạnh luôn luôn tâm niệm như vậy.

Tuy bồ-đề là lý tưởng, là đích đến của bồ-tát hạnh, nhưng trên thực tế, chỉ có hành động mới thật sự được quan tâm và là nội dung hai đặc tính của bồ-tát hạnh, đó là từ bi và trí tuệ. Những đặc tính này chắc chắn không phải không có trong Zuckerberg.

Với quan điểm hành động như thế, việc Zuckerberg hành bồ-tát hạnh là điều có thể nhận thức được. Nếu bồ-tát hạnh được thực thi chỉ vì mục đích thiết thựccứu khổ, ban vui mà không vì một học thuyết hay giáo lý nào từ kinh điển, thì bồ-tát hạnh là những hình thái từ thiện chân chính được thấy trong thế giới chúng ta, và nó không bị hạn cuộc trong một học thuyết tôn giáo nào. Mặc dù lòng trắc ẩn và tình người là động cơ ban đầu cho hành động của họ, nó có thể dần dần trở thành một lý tưởng nếu được un đúc và tích tập lâu dài. Quả thật, có người đã quên mình hay hy sinh mình để giúp người khác. Lý tưởng như thế có thể chăng đang ở trong một mức độ nào đó của bồ-đề tâm mà một Phật tử hành bồ-tát hạnh đang thực hành? Chúng ta cần đặt qua một bên các quan điểm tín ngưỡng để nhận ra những giá trị đích thực của việc giúp đời cứu người mà Zuckerberg và nhiều người khác đã dấn thân.

Sống trên đời, dù trong hình thức nào, ai cũng mong cầu và tìm kiếm hạnh phúc. Nhưng vì quan niệm về hạnh phúc không giống nhau nên con người có những khuynh hướng tìm cầu hạnh phúc khác nhau: hoặc vật chất, hoặc tinh thần, hoặc cả hai. Tuy nhiên, do hạnh phúc là một trạng thái thuộc tâm hay tâm lý, nên khó có một định nghĩa hạnh phúc thỏa đáng. Phật giáo không trực tiếp định nghĩa hạnh phúc, mà chỉ xác định rằng khi nào không có khổ thì khi đó có hạnh phúc. Đó là lý do Phật giáo nhằm chỉ ra sự thật khổ mà con người đối diện, rồi chỉ ra nguyên nhân của nó để đoạn trừ.

Nguyên nhân của khổ được nói chính là “tham ái”, đưa đến chấp thủ: cái này ‘là của tôi’, ‘là tôi’, ‘là tự ngã của tôi’. Để đoạn trừ tham áichấp thủ ấy, phương pháp thường được Phật giáo Đại thừa nhiệt tình khích lệ là hãy sống buông bỏhạnh phúc của người khác, hãy hy sinh lợi ích của riêng mình cho đến chỗ vô ngã (chỉ còn hành động hy sinh mà không thấy có mình trong đó). Phật giáo Nguyên thủy cũng cho rằng làm lợi ích cho mình là làm lợi ích cho người khác, và ngược lại. Kinh Tương Ưng (S.v,168) dạy: “Trong khi hộ trì cho mình, này các Tỷ-kheo, là hộ trì người khác. Trong khi hộ trì người khác, là hộ trì cho mình.” Phật giáo cho rằng không có một cái gì tồn tại độc lập trong cái thế giới duyên sinh này.

Hạnh phúc thực chất là tất cả những gì trong thế giới xung quanh ta. Một nỗi buồn nào đó bỗng nhiên ập đến khiến cho tất cả những niềm vui đang có vụt biến mất.

Giàu có thôi vẫn không đem lại hạnh phúc. Liệu tầng lớp giàu cóTrung Quốcan lòng không khi đối diện với thống kê rằng người dân Trung Quốc không kính trọng họ? Theo Lu Xueyi, nhà nghiên cứu của Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, các nhà triệu phú nước này có “cảm giác bất an” là “do xu hướng của xã hội vừa ghét vừa ghen tị với những người giàu.” Đây thật ra chỉ là đánh giá bề ngoài. Vấn đề căn để là ở chỗ “Họ có chánh mạng không (cách làm giàu)?” và “Họ có lòng trắc ẩn đối với tầng lớp nghèo khổ không?” Nói cách khác, trong mắt người dân, cách làm giàu và cách sử dụng đồng tiền của họ là không đáng được kính trọng. Thật là không ổn khi tìm thấy hạnh phúc của mình trên khổ đau của người khác. Nếu họ có hạnh phúc thì ắt hẳn đó là những thứ hạnh phúc vị kỷ, đê tiện và tạm bợ; còn sự bất an thì lại quá rõ ràng khi họ luôn mang trong mình tâm trạng rằng thế giới xung quanh đang rình rập. Tự đặt mình biệt lập với con ngườithế giới xung quanh, người ta càng cảm thấy hoảng hốt và bi thảm khi kết thúc cuộc đời bằng nhận thức rằng tất cả (những gì ‘của tôi’, ‘là tôi’) đều trở thành của ‘thiên hạ’. Sống một cuộc sống bất an thì chết cũng chẳng lành.

Zuckerberg đã làm giàu bằng chính công sức và trí tuệ của anh (chánh mạng), đồng thời sẵn sàng mở lòng san sẻ những gì anh có cho người khác; cả hai mặt, anh đều đáng được tôn kính.

Anh hẳn đã hơn người trong việc tìm cầu hạnh phúc. Hạnh phúc của anh không dừng lại ở sự giàu sang và hưởng thụ; hạnh phúc của anh không dừng lại ở tuổi trẻ tài cao; hạnh phúc của anh không dừng lại ở đứa con cưng Facebook; hạnh phúc của anh không dừng lại ở danh tiếng trọng vọng; và có lẽ hạnh phúc của anh cũng không dừng lại ở công tác từ thiện. Nhưng anh có tất cả. Và tất cả đã tạo ra cho anh một hạnh phúc bao la, không biên giới.

Có lẽ đối với anh thế giới này là một thực thể duyên sinh nên anh đã và đang tìm cách kết nối thành một mối tương quan sinh tồn, điển hình được thấy qua mạng xã hội Facebook mà anh làm chủ, cũng như qua công tác từ thiện mà anh đã dấn thân. Nếu nhìn được như vậy, anh đúng là đang thực hành bồ-tát hạnh, và lấy con ngườithế giới này làm môi trường tốt để nuôi dưỡng cho mình một hạnh phúc cao cả.[3)

Không phải vô cớ mà chàng trai 26 tuổi Zuckerberg được tạp chí Time (Mỹ) ưu tiên dành cho danh hiệuNhân vật của năm 2010” dù tên tuổi của anh được truy cập trên xa lộ thông tin online thua xa Julian Assange, chủ trang Wikileaks, người đã làm xáo trộn ngoại giao quốc tế. Điều này cho thấy cái thiện được tôn vinh. Đáng nói là danh hiệu đó của anh được hầu hết cư dân mạng tán đồng và hết lòng ngưỡng mộ. Hạnh phúc chân thật đang chào đón những ai sống với tâm từ bi và trí tuệ như ông chủ Facebook này.

(Văn hóa Phật giáo, số 137)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 785)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 752)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 688)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 719)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 768)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 705)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 744)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 797)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 939)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1409)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 957)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 998)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 751)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 764)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 628)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1293)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1170)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1198)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1143)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1233)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1159)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1035)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1156)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1126)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1240)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1133)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1207)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1196)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1174)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1157)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1750)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1148)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1178)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1288)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1174)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant