Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ông chủ Facebook "hành Bồ-tát hạnh"

12 Tháng Tư 201200:00(Xem: 12513)
Ông chủ Facebook "hành Bồ-tát hạnh"
ÔNG CHỦ FACEBOOK
“HÀNH BỒ TÁT HẠNH”
Thích Tâm Hạnh

mark-zuckerbergChàng trai chủ nhân của mạng xã hội Facebook 26 tuổi này đã làm cả thế giới chú ý tới không chỉ vì trí tuệtài năng trẻ phục vụ số đông của anh, mà anh còn là hiện tượng của sự dấn thân vào những công việc khó làm – hiến tài sản làm từ thiện – ở độ tuổi và sự nghiệp đang phất. Phật giáo xem sự dấn thân như thế là bồ-tát hạnh, là công hạnhlý tưởng lợi tha của người Phật tử Đại thừa. Nhìn một Phật giáo phi hình thức, người Phật tử có thể thấy được vai trò đích thực của tư tưởng Phật giáo không nằm ở tôn giáo, mà nằm ở hành động. Tôi xin thông qua nhân vật Zuckerberg để làm sáng tỏ tư tưởng này của Phật giáo.

Việc xem tỷ phú Zuckerberg “phát bồ-đề tâm, hành bồ-tát hạnh” nghe ra có vẻ khó chấp nhận đối với người Phật tử, bởi những khái niệm này vừa là thuật ngữ vừa là lý tưởng của Phật giáo Đại thừa lại được gán cho một chàng trai người Mỹ gốc Do Thái. Nhưng kỳ thật, ‘bồ-đề tâm’ cũng như ‘bồ-tát hạnh’ không mang một ý nghĩa tín ngưỡng tôn giáo gì cả. Nó biểu đạt một lối sống của người đi tìm kiếm hạnh phúc thông qua sự nghiệp tạo dựng hạnh phúc cho người khác.

Bồ-đề tâm phát xuất từ chữ ‘bodhicitta’, là một thuật ngữ của Phật giáo Đại thừa. ‘Bồ-đề’ là phiên âm của chữ ‘bodhi’ (tiếng Pali/Sanskrit), nghĩa là ‘giác’, ‘giác ngộ’, ‘tuệ giác’, tức là hiểu biết các pháp một cách rốt ráo, không có chấp thủBodhi là quả vị giác ngộ tối thượngđức Phật đã chứng đắc dưới gốc cây Assattha mà sau đó cây này được gọi là cây Bodhi (Bồ-đề). Bồ-đề tâm (bodhicitta) do đó có thể được hiểu là tâm giác ngộ. Đối với chư Phật, nó là thực tại; còn đối với chúng sanh, nó cần phải được phát huy, cho nên được gọi là ‘phát tâm bồ-đề’. Người phát tâm bồ-đề cần hiểu rõ rằng bồ-đề sẵn có trong mỗi chúng sanh và sẽ hiện rõ khi màn vô minh được vén lên. Điều này muốn nói đến tánh giác trong mỗi chúng sanh. Trong văn học Phật giáo Nguyên thủy (Pali), từ tương đương của bồ-đề tâm có lẽ là ‘pabhassara citta’, nghĩa là ‘tâm sáng chói’. Kinh Tăng Chi chép: “Tâm này, này các Tỷ-kheo, là sáng chói, nhưng bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào” (A.i, 9). Như vậy, phát tâm bồ-đề có thể được hiểu là hướng tâm đến sự thanh tịnh sáng chói vốn có (của tâm), và cũng tức là hướng tâm đến sự giác ngộ bồ-đề (bodhi).

Với ý nghĩa Bồ-đề như vậy thì tỷ phú Zuckerberg phát bồ-đề tâm như thế nào? Trước hết chúng ta cần xác định rằng Phật giáo chỉ quan tâm đến con người và tâm người, mà không có một sự phân biệt nào liên quan đến giai cấp, sắc tộc, tôn giáo, v.v. Và hành động hay nghiệp (karma) được xem là chủ trương của Phật giáo với mục đích là làm thanh tịnh ba nghiệp thân, khẩu, ý (việc làm, lời nói, ý nghĩ). Đây là con đường đưa đến sự đoạn tận tham, sân, si, thành tựu quả vị bồ-đề. Nói cách khác, quả vị bồ-đề có thể chứng đắc nếu hành trì đúng pháp (tức là làm thanh tịnh ba nghiệp, đoạn tận tham, sân, si), mà không tùy thuộc vào một quan điểm hay danh xưng nào. Trung Bộ Kinh, số 126, nói rằng “dù có nguyện vọng hay không, việc hành trì Phạm hạnh một cách chánh đáng thời đạt được quả vị.” Với chủ trương hành động như thế, tỷ phú Zuckerberg cũng có thể không ngoại lệ, và có lẽ đang đi trên đạo lộ ấy.

Như đã nói, chướng ngại của bồ-đề chính là vô minh và các cấu uế từ bên ngoài vào, được hiển thị qua thân, khẩu, ý. Và Zuckerberg dường như đang thăng hoa cuộc sống khi từng bước vén màn vô minhbuông bỏ các cấu uế ngoại lai ngang qua những việc làm của mình. Quả thực, mức độ hạnh phúc hay khổ đau của con người tùy thuộc ít hay nhiều vô minhcấu uế ngoại lai ấy.[1] Càng ít vô minh (tức trí tuệ càng nhiều) chừng nào thì người ta càng dễ dàng buông bỏ những cấu uế ngoại lai chừng ấy, và ngược lại.

Có thể Zuckerberg không hề biết hay nghĩ đến danh xưng ‘bồ-đề’ hay ‘chánh giác’ gì cả, nhưng những thăng hoa hạnh phúc trên đạo lộ buông bỏ của anh (mà người Phật tử gọi là đạo lộ đưa đến bồ-đề) thì không thể phủ nhận. Việc Zuckerberg dấn thân làm từ thiện là một biểu hiện của sự buông bỏ như thế, và đặc biệttìm thấy hạnh phúc thông qua việc xây dựng hạnh phúc cho người khác. Như vậy là anh đã phát bồ-đề tâm và hành bồ-tát hạnh (nói theo ngôn ngữ Phật học) trong ý nghĩa đích thực của nó mà không cần một danh xưng nào hết. Tuy nhiên, con đường đạt đến đích bồ-đề theo Phật giáo Đại thừa là một hành trình dài và đòi hỏi một tâm vị thakiên định, những yếu tốhiện tại ít nhiều anh đang có.

Khái niệm “Bồ-tát hạnh” có nguồn gốc từ văn học Phật giáo Nguyên thủy, được minh họa rõ nét nhất qua tập Bổn Sanh (Jātaka –Chuyện Tiền Thân Đức Phật). “Bồ-tát” trong thời kỳ văn học này là danh xưng được sử dụng chỉ cho đức Phật trong nhiều kiếp trước, “khi Ngài chưa thành Phật, còn là Bồ-tát”. Qua đó, Bồ-tát được thấy đã sống trong nhiều kiếp dưới nhiều hình thức khác nhau, không chỉ làm người mà còn làm chim, làm thú… Điều đáng quan tâm là, dù ở trong sanh loại nào, Ngài đều thể hiện một tính cách thông minh, năng độngsáng tạo trong cách ứng xử để bảo vệ chân lýlợi ích cho số đông. Có nhiều mẩu chuyện cho thấy Ngài đã hy sinh thân mạng của mình vì sự bình anhạnh phúc của đồng loại. Tất cả những việc làm này của Ngài được gọi là “bồ-tát hạnh” có đủ trí tuệtừ bi, và là tấm gương đạo đức gần gũi với con người. Khái niệm “bồ-đề tâm” chưa xuất hiện trong thời kỳ văn học này.

Trong Phật giáo của thời kỳ sau, bồ-tát hạnh được ứng dụng một cách linh hoạt như là tư tưởng quan trọng của Đại thừa. Người Phật tử Đại thừa hành bồ-tát hạnh dường như muốn noi theo những việc làm mà chính đức Phật đã làm khi Ngài còn là Bồ-tát, chứ không phải noi theo những giáo pháp được Ngài thuyết giảng sau khi Ngài thành Phật. Họ nhận thức rằng đức Phật đã từng luân chuyển trong thế giới luân hồi như bao nhiêu chúng sanh khác, nhưng nhờ những công hạnh như thế Ngài mới chứng được quả vị Bồ-đề. Trên cơ sở đó, ai cũng có khả năng thành tựu bồ-đề nếu họ thực hành bồ-tát hạnh như Ngài.[2] Người Phật tử Đại thừa hành bồ-tát hạnh luôn luôn tâm niệm như vậy.

Tuy bồ-đề là lý tưởng, là đích đến của bồ-tát hạnh, nhưng trên thực tế, chỉ có hành động mới thật sự được quan tâm và là nội dung hai đặc tính của bồ-tát hạnh, đó là từ bi và trí tuệ. Những đặc tính này chắc chắn không phải không có trong Zuckerberg.

Với quan điểm hành động như thế, việc Zuckerberg hành bồ-tát hạnh là điều có thể nhận thức được. Nếu bồ-tát hạnh được thực thi chỉ vì mục đích thiết thựccứu khổ, ban vui mà không vì một học thuyết hay giáo lý nào từ kinh điển, thì bồ-tát hạnh là những hình thái từ thiện chân chính được thấy trong thế giới chúng ta, và nó không bị hạn cuộc trong một học thuyết tôn giáo nào. Mặc dù lòng trắc ẩn và tình người là động cơ ban đầu cho hành động của họ, nó có thể dần dần trở thành một lý tưởng nếu được un đúc và tích tập lâu dài. Quả thật, có người đã quên mình hay hy sinh mình để giúp người khác. Lý tưởng như thế có thể chăng đang ở trong một mức độ nào đó của bồ-đề tâm mà một Phật tử hành bồ-tát hạnh đang thực hành? Chúng ta cần đặt qua một bên các quan điểm tín ngưỡng để nhận ra những giá trị đích thực của việc giúp đời cứu người mà Zuckerberg và nhiều người khác đã dấn thân.

Sống trên đời, dù trong hình thức nào, ai cũng mong cầu và tìm kiếm hạnh phúc. Nhưng vì quan niệm về hạnh phúc không giống nhau nên con người có những khuynh hướng tìm cầu hạnh phúc khác nhau: hoặc vật chất, hoặc tinh thần, hoặc cả hai. Tuy nhiên, do hạnh phúc là một trạng thái thuộc tâm hay tâm lý, nên khó có một định nghĩa hạnh phúc thỏa đáng. Phật giáo không trực tiếp định nghĩa hạnh phúc, mà chỉ xác định rằng khi nào không có khổ thì khi đó có hạnh phúc. Đó là lý do Phật giáo nhằm chỉ ra sự thật khổ mà con người đối diện, rồi chỉ ra nguyên nhân của nó để đoạn trừ.

Nguyên nhân của khổ được nói chính là “tham ái”, đưa đến chấp thủ: cái này ‘là của tôi’, ‘là tôi’, ‘là tự ngã của tôi’. Để đoạn trừ tham áichấp thủ ấy, phương pháp thường được Phật giáo Đại thừa nhiệt tình khích lệ là hãy sống buông bỏhạnh phúc của người khác, hãy hy sinh lợi ích của riêng mình cho đến chỗ vô ngã (chỉ còn hành động hy sinh mà không thấy có mình trong đó). Phật giáo Nguyên thủy cũng cho rằng làm lợi ích cho mình là làm lợi ích cho người khác, và ngược lại. Kinh Tương Ưng (S.v,168) dạy: “Trong khi hộ trì cho mình, này các Tỷ-kheo, là hộ trì người khác. Trong khi hộ trì người khác, là hộ trì cho mình.” Phật giáo cho rằng không có một cái gì tồn tại độc lập trong cái thế giới duyên sinh này.

Hạnh phúc thực chất là tất cả những gì trong thế giới xung quanh ta. Một nỗi buồn nào đó bỗng nhiên ập đến khiến cho tất cả những niềm vui đang có vụt biến mất.

Giàu có thôi vẫn không đem lại hạnh phúc. Liệu tầng lớp giàu cóTrung Quốcan lòng không khi đối diện với thống kê rằng người dân Trung Quốc không kính trọng họ? Theo Lu Xueyi, nhà nghiên cứu của Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, các nhà triệu phú nước này có “cảm giác bất an” là “do xu hướng của xã hội vừa ghét vừa ghen tị với những người giàu.” Đây thật ra chỉ là đánh giá bề ngoài. Vấn đề căn để là ở chỗ “Họ có chánh mạng không (cách làm giàu)?” và “Họ có lòng trắc ẩn đối với tầng lớp nghèo khổ không?” Nói cách khác, trong mắt người dân, cách làm giàu và cách sử dụng đồng tiền của họ là không đáng được kính trọng. Thật là không ổn khi tìm thấy hạnh phúc của mình trên khổ đau của người khác. Nếu họ có hạnh phúc thì ắt hẳn đó là những thứ hạnh phúc vị kỷ, đê tiện và tạm bợ; còn sự bất an thì lại quá rõ ràng khi họ luôn mang trong mình tâm trạng rằng thế giới xung quanh đang rình rập. Tự đặt mình biệt lập với con ngườithế giới xung quanh, người ta càng cảm thấy hoảng hốt và bi thảm khi kết thúc cuộc đời bằng nhận thức rằng tất cả (những gì ‘của tôi’, ‘là tôi’) đều trở thành của ‘thiên hạ’. Sống một cuộc sống bất an thì chết cũng chẳng lành.

Zuckerberg đã làm giàu bằng chính công sức và trí tuệ của anh (chánh mạng), đồng thời sẵn sàng mở lòng san sẻ những gì anh có cho người khác; cả hai mặt, anh đều đáng được tôn kính.

Anh hẳn đã hơn người trong việc tìm cầu hạnh phúc. Hạnh phúc của anh không dừng lại ở sự giàu sang và hưởng thụ; hạnh phúc của anh không dừng lại ở tuổi trẻ tài cao; hạnh phúc của anh không dừng lại ở đứa con cưng Facebook; hạnh phúc của anh không dừng lại ở danh tiếng trọng vọng; và có lẽ hạnh phúc của anh cũng không dừng lại ở công tác từ thiện. Nhưng anh có tất cả. Và tất cả đã tạo ra cho anh một hạnh phúc bao la, không biên giới.

Có lẽ đối với anh thế giới này là một thực thể duyên sinh nên anh đã và đang tìm cách kết nối thành một mối tương quan sinh tồn, điển hình được thấy qua mạng xã hội Facebook mà anh làm chủ, cũng như qua công tác từ thiện mà anh đã dấn thân. Nếu nhìn được như vậy, anh đúng là đang thực hành bồ-tát hạnh, và lấy con ngườithế giới này làm môi trường tốt để nuôi dưỡng cho mình một hạnh phúc cao cả.[3)

Không phải vô cớ mà chàng trai 26 tuổi Zuckerberg được tạp chí Time (Mỹ) ưu tiên dành cho danh hiệuNhân vật của năm 2010” dù tên tuổi của anh được truy cập trên xa lộ thông tin online thua xa Julian Assange, chủ trang Wikileaks, người đã làm xáo trộn ngoại giao quốc tế. Điều này cho thấy cái thiện được tôn vinh. Đáng nói là danh hiệu đó của anh được hầu hết cư dân mạng tán đồng và hết lòng ngưỡng mộ. Hạnh phúc chân thật đang chào đón những ai sống với tâm từ bi và trí tuệ như ông chủ Facebook này.

(Văn hóa Phật giáo, số 137)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 113)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 141)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 157)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 164)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 186)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 233)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 221)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 233)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 225)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 264)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 253)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 211)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 158)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 187)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 209)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 295)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 306)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 386)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 360)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 343)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 355)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 611)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 580)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 852)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 447)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 681)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 500)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 487)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 388)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 505)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 471)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 655)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 452)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 853)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 577)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 580)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 974)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 685)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 575)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 877)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 548)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 678)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 651)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 628)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 641)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 640)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 535)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 709)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1022)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1200)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant