Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chùa Việt Trên Đất Mỹ

28 Tháng Năm 201200:00(Xem: 15392)
Chùa Việt Trên Đất Mỹ

CHÙA VIỆT TRÊN ĐẤT MỸ
Thích Đức Trí


Trong tinh thần truyền giáo để thực hiện sứ mệnh hoằng dương chánh pháp, người Phật Việt Nam cũng góp một phần không nhỏ đưa đời sống tâm linh và văn hoá đạo đức đến đất nước bạn. Hiện hữu Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại như là sự hóa thân mầu nhiệm của một di sản văn hóa Phật Giáo Việt Nam.

Nhìn lại một khoảng dài lịch sử, chúng ta cần có những giây phút trầm tư về giá trị của sự đóng góp cao cả của các bậc tiền nhân đã mở đường cho Phật Giáo phát triển. Như một sự thể hiện lòng tri ântrách nhiệm, chúng ta cần thẩm định lại mô thức hoạt độngthực hành lời dạy cao quí của Đức Phật trong cuộc sống công nghiệp hiện đại. Mục đích duy nhất là phát triển tiềm năng vốn có của Phật giáo Việt nam đang được hình thành trên đất Mỹ. 

Từ ý nghĩa đó, trong bài viết này, chúng tôi dựa trên nhận thức thực tế về sự xuất hiện, tồn tại và phát triển các chùa Việt Nam tại Mỹ. Mục đíchtìm hiểu vai trò sinh hoạt tu học của chư TăngPhật tử ở hải ngoại, cơ sở chùa hải ngoại, nhu cầu tu học của Phật tử, điều kiện hoằng pháp và định hướng phát triển của chùa Việt trong tương lai.

Đây là chủ đề khá rộng rãi, và thiết nghĩ rằng, cần nhiều cơ hội thảo luận rõ ràng cho một chương trình hoằng pháp cũng là điều không phải là thừa. Nếu không như thế, chúng ta không hình dung sự khó khăn để khắc phục, sự thuận lợi để phát huy cho Phật giáo trong xã hội hiện đại.

1. Cơ sở chùa tại hải ngoại

Trong vài thập niên thôi mà đã có hàng trăm ngôi chùa Việt tại hải ngoại, đặc biệt là tại Mỹ cũng gần đến ba trăm ngôi chùa . Trong khi đó, Phật giáo đã truyền bá vào đất Mỹ khá mạnh vào khoảng cuối thế kỷ 19, nhưng nó chỉ phổ cập trong giới tri thức, tín đồ và chế độ thiết lập chùa rất đơn điệu.

Phật tử Việt Nam thì khác, do ảnh hưởng truyền thống văn hóa đạo đức Phật Giáo có chiều dài lịch sử hơn người Mỹ, do vậy ở đâu có Phật tử Việt thì ở đó có hình ảnh của chùa Việt Nam. Người Phật tử Việt luôn có tinh thần bảo tồn giá trị văn hoá truyền thốnggìn giữ nếp sống đạo đức cao đẹp.

Cho nên khi hình thành Phật giáo Việt Nam tại hải ngoại họ dễ dàng đón nhận và có tinh thần ủng hộ mạnh mẽ trong việc thiết lập không gian tâm linh để có môi trường tu học. Họ luôn quan niệm, mái chùa là hình ảnh thân thương của dân tộc, là ngôi trường văn hóa đạo đức tâm linh, là cái nôi cho tuổi trẻ, là tâm hồn của những người con xa xứ...

Nhưng làm thế nào để gìn giữ giá trị ngôi chùa ở hải ngoại và bảo tồn nét đẹp văn hóa đó trong lòng mỗi người con Phật mới là điểm son đáng ghi dấu trên xứ người.

Thực tế, ở Việt Nam xây dựng một ngôi chùa và bảo trì một ngôi chùa không khó. Điều đó phải chăng là quá chủ quan? Nhưng thiết nghĩ, sự đồng lòng sẽ tạo nên một sức mạnh mà không việc gì không thành.

Việt Nam, nhân lực đầy đủ. Nam Bắc Trung đã có các trường đại học Phật Giáo, Cao đẳng và Trung cấp phật học. Điều kiện thông tin báo chí Phật học lưu thông khá rộng rãi. Do vậy mà lượng tín đồ trong các chùa phát triển nhanh chóng và tinh thần tu học khá thuận lợi... thế nên việc bảo trì một ngôi chùa ở Việt Nam dễ dàng hơn.

Trong khi đó, ở xã hội công nghiệp hiện đại, người Phật tử phải làm việc suốt tuần, họ chỉ đến chùa được vào ngày chủ nhật để đọc kinhnghe pháp. Ở Mỹ hình thành ngôi chùa khá dễ dàng nhưng bảo trì thì tương đối khó. Giống như sinh ra một đứa con thì chỉ mất một thời gian ngắn, nhưng nuôi dạy đứa con thành người thì phải hy sinh nhiều công sức lâu dài. Huống gì nói đến việc xây dựng và phát triển một ngôi nhà Phật giáo trên đất Mỹ!

Bài học về các ngôi chùa của Phật giáo Trung Quốc tại Mỹ như là một cơn sốt để chúng ta cần suy tư. Khoảng từ 1853 về sau, có nhiều chùa Trung quốc tại Mỹ, nhưng dần dần các chùa chiền bị mất dấu tích theo thời gian.

Lý do duy nhất là không đào tạo được thế hệ kế tiếpnăng lực bảo trì. Hiện nay, các nhà nghiên cứu Phật Giáo Đài Loan cũng nhận định rằng, với những cơ sở chùa to lớn, chi phí tiền bảo trì càng cao thì sự tồn tại lâu trong xã hội hiện đại càng gặp khó khăn hơn.

Ở Mỹ, có nhiều chùa khá lớn, nhưng trong chùa có một vài vị Tăng, Ni, thậm chí chỉ có một vị xuất gia mà thôi. Đi khắp 50 tiểu bang nước Mỹ, thắp đuốc mà tìm được bao nhiêu ngôi chùa có chú tiểu xuất gia tu học như ở Việt Nam. Nếu khôngchú Tiểu thì làm gì có vị Hòa thượng tương lai.

Như vậy, giải pháp thích hợp là mời thêm Tăng Ni Việt Nam đến Mỹ hoằng pháp. Bên cạnh đó phải mở lớp đào tạo Phật tử trẻ tuổi làm việc và phục vụ cho việc bảo trì chùa trong tương lai. Nếu chúng ta cứ nhiệt tâm xây chùa mà không chú trọng đào tạo nhân sự ở thế hệ kế tiếp thì tương lai Phật giáo tại hải ngoại sẽ như thế nào?

2. Nhu cầu tu học của Phật tử

Điều nhận thấy rõ ràng rằng có ba thành phần Phật tử đang sinh hoạt trong một phạm vi của một ngôi chùa Việt Nam. Thành phần các phụ huynh Phật tử lớn tuổi định cư ở Mỹ, thành phần con cháu người Việt Nam sinh ra tại mỹ, thành phần những tín đồ người mỹ và các dân tộc khác đang đến với đạo Phật.

Các phụ huynh Phật tử đã sống ở Việt Nam dễ dàng tham gia tu học vì có sẵn niềm tin sâu sắc với Tam Bảo. Hiện nay các con cháu người Việt Nam sinh ra và lớn lên tại Hải ngoại rất đông. Chúng ta nỗ lực giáo dục các em ngay từ lúc đầu về khả năng ngôn ngữ, như học tiếng Việt song song với việc học tiếng Anh. Nếu không như thế thì tuổi trẻ sinh ra ở hải ngoại quên mất tiếng mẹ đẻ của mình.

Tiếp cận văn hóa đời sống Tây Phương là cần thể nhập ngôn ngữ bản xứ, nhưng cần con em trở về với cội nguồn văn hóa Việt Nam thì phải gìn giữ ngôn ngữ Việt Nam. Có những nét đẹp trong văn hóa Việt Nam được bảo tồn tại xã hội Mỹ đem đến hạnh phúc trong gia đìnhxã hội. Ví dụ như quan niệm về quan hệ dòng tộc và trách nhiệm con cái đối với cha mẹ, về tình nghĩa vợ chồng chung thủy và tinh thần yêu chuộng truyền thống đạo đức của tổ tiên để lại.

Xã hội Mỹ tiếp nhận nhiều nguồn văn hóa của các dân tộc khác, ngôn ngữ truyền thông phần lớn là tiếng Anh. Thực tập đọc kinhnghe pháp bằng Anh ngữ có thêm kinh nghiệm tu học. Muốn có bộ mặt Phật Giáo Việt Nam tương lai tươi sáng thì phải có cái định hướng thiết thực trong hiện tại. Điều đó cần có tinh thần tu học nhất quán của của chư TăngPhật tử trong việc thực tiển hóa đạo Phật thích ứng với xã hội hiện đại.

Thành phần người Mỹ tu học rất thực dụngđơn giản, việc đầu tiên đến với đạo Phậttìm hiểu lời Phật dạy. Họ tư duy lời Phật dạythực hành thiền định để kiểm nghiệm trước.

Mới đầu chúng ta thấy họ có vẻ thận trọng và thiếu tín tâm với Tam Bảo, nhưng khi họ hiểu ra mọi vấn đề, không còn nghi ngờ về giáo lý thì họ nỗ lực thực tập với niềm tin bất thối.

Đặc điểm đáng tôn trọng của Người Mỹ là tự thân với niềm tin xác quyết, chứ không thích tư duy và nghe một chiều, họ thích tìm kinh điển tư duy so sánh và kiểm định mọi thông tin và hành trì. Điều này cũng phù hợp với người học Phật có chánh kiến.

3. Điều kiện tu học

Hiện nay Phật Giáo Việt Nam tại Mỹ vẫn chưa đủ điều kiện mở trường Phật học đào tạo cho Tăng NiPhật tử. Phần đông Tăng Ni đang hành đạo tại Mỹ đều từ Việt Nam qua hay đi du học các nước đến hoằng pháp và định cư. Có người cứ bảo rằng, tu học ở trong xã hội văn minh này thuận lợi, nhưng thực tế không như mình tưởng. Điều mà không ít vị Tăng Ni mới đến Mỹ khá bở ngở về đời sống sinh hoạt. Vì rằng: Chúng ta từ nhỏ tu ở Việt Nam, sống môi trường thuận lợi: Cơm cha, áo mẹ, công thầy dạy dỗ.

Phần đông, chùa nào cũng có Phật tử nấu ăn phục vụ chu đáo. Phật tử mong được công quả tại chùa và để quý thầy cô có thời gian học tập và trau dồi đời sống tâm linhtri thức. Khi sống nước ngoài, vị Tăng hay vị Ni ở chùa đóng nhiều vai trò trong một ngôi chùa. Chủ nhật thì làm giảng sư, có lúc làm thầy hương đăng quét dọn, có lúc thì người công quả, tưới cây, cắt cỏ, có lúc làm thầy kinh sư đi lo đám tang, thậm chí hằng ngày có lúc làm bà Vãi đi chợ nấu ăn, nếu không làm vậy thì ăn thức ăn ướp lạnh không tốt cho sức khỏe.

Nói đến Phật tử sống ở Mỹ cũng vậy, thành phần nhiệt tâm hộ đạo, ngoài làm ở công sở, còn chăm lo nhà cửa, chắt lọc từng chút thời gian để về chùa làm công quả, tụng kinh, nghe pháp. Thường ngày ai cũng có công việc làm ăn nên không có thời gian về chùa phục vụ thường xuyên. Giả sử họ có làm ra đồng tiền, họ không có ý hưởng thụ, thích chia sẻ cúng chùa và làm từ thiện. Trong xã hội hiện đại, vật chất không thiếu thốn, nhưng thời gianvấn đề then chốt chi phối mọi điều kiện sinh hoạt.

4. Định hướng sự tu học và phát triển

Là người con Phật, được sanh ra từ trong bổn nguyện độ sanh của Phật, được sanh ra trong ngôi nhà Phật Pháp, ngôi nhà ấy đã ở thế gian trên 25 thế kỷ. Từ ánh sáng chứng ngộ dưới cội bồ đề, Đức Từ Phụ đã bền bỉ 49 năm tuyên thuyết con đường giải thoát khổ đau cho nhân loại. Lịch sử phát triển và tồn tại chánh pháp như như ngọn đèn bất diệt trao tay qua từng thế hệ tiền nhân, thắp sáng nguồn từ bitrí tuệ trong lòng đời sanh diệt. Những ngọn đèn ấy đã và đang bừng sáng trong dân tộc Việt Nam. Đạo Phật nhiệm mầu đã rửa sạch thù hận và đau thương trong lòng dân Việt qua bao giai đoạn lịch sử chiến tranh.

Từ đó, hình ảnh Đức Phậtchánh Pháp của Phật được tôn vinh tại đất nước Việt NamPhật giáo Việt Nam luôn kề vai sát cánh với dân tộc Việt Nam. Người Việt Nam đã từng đón nhận đạo Phật mà làm nên lịch sử vẻ vang cho đất nước. Hôm nay, chúng ta khẳng định giá trị văn hóa Phật Giáo Việt Nam bằng hình thái tu học và xiển dương chánh pháp tại hải ngoại. Bao lớp Tăng NiPhật tử cũng tha thiết hiến dâng cho đời giá trị tinh túy Phật học

Chúng ta hãy cùng nhau kiện toàn được tổ chứcTăng Ni tu học và chăm lo công tác giảng dạy cho tín đồ như là một sứ mệnh. Nỗ lực đào tạo những Phật tửtrình độ Phật học để làm Phật sự. Từ đó, mới có đầy đủ điều kiện duy trì và phát triển chùa Việt tại hải ngoại lâu dài.

Mùa hạ - Nhâm Thìn 2012
Chùa Tam Bảo, Tulsa, Oklahoma – Mỹ Quốc

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 784)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 751)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 686)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 718)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 766)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 704)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 743)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 793)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 937)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1408)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 955)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 991)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 748)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 758)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 625)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1288)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1167)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1197)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1142)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1227)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1151)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1032)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1155)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1124)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1237)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1132)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1206)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1195)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1171)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1155)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1740)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1142)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1174)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1286)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1171)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant