Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngày Về Nguồn - Một Tâm Thức Hoạt Dụng Lời Phật Dạy - Bài Đọc Một

19 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 20167)
Ngày Về Nguồn - Một Tâm Thức Hoạt Dụng Lời Phật Dạy - Bài Đọc Một


NGÀY VỀ NGUỒN - MỘT TÂM THỨC HOẠT DỤNG LỜI PHẬT DẠY

Bài Đọc Một

{Xem bản PDF}

Đoàn thể Tăng già đầu tiên từ thời Đức Phật, đó là năm anh em Kiều Trần Như, sau khi nghe bài pháp Tứ Diệu Đế đã trở thành các bậc Thánh, các vị Tỳ Kheo, các Thanh Văn Tăng, các bậc xuất gia, các trang thiện nam tử, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo. Những bậc ly dục, ly ác bất thiện pháp. Những bậc sống hạnh viễn ly rừng núi, thiền định độc cư. Những bậc sống đời thong dong tự tại như loài tê giác thênh thang trong rừng già và ý nghĩa Tam Bảo cũng được hình thành ngay trong giờ phút đó: Phật BảoĐức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Pháp Bảobài Kinh Tứ Diệu Đế. Tăng Bảo là năm vị Tỳ Kheo: Kiều Trần Như (Kondanna), Bạt Đề (Bhaddiya), Thập Lực (Vappa), Maha Nam (Mahanama) và Át Bệ (Assaji). Cũng kể từ ngày đó, Đức Phật là bậc Thầy giáo dục, dạy dỗ đàn học trò, đệ tử suốt quãng đời còn lại cho đến ngày công viên quả mãn. Để thấy được tấm lòng của Bậc Đạo Sư, vị Thầy cao cả vì lòng thương tưởng đến hàng đệ tử hậu học, vì sự thánh thiện tự thân trên con đường tu tập, vì sự thông suốt Phật pháp để làm phương tiện chuyển mê khai ngộ, là chiếc bè đưa người qua bến sông sinh tửĐức Phật đã ân cần dặn dò, thăm hỏi trước khi nhập Niết Bàn:

“Này các Tỳ Kheo, các con đã thấu hiểu hết những lời Như Lai thuyết giáo? Đối với Phật pháp, các con còn có chỗ nào nghi hoặc chưa hiểu, các con hãy nói lên chỗ nghi ngờ chưa hiểu của mình, chưa thông suốt của mình. Nếu các con không dám trực tiếp hỏi thẳng Như Lai thì các con hãy nhờ bạn của mình thay mình để hỏi. Hỏi vì lợi ích cho mình, vì lợi ích cho bạn đồng học và rất nhiều người về sau. Các con hỏi để Như Lai trả lời trước khi Như Lai nhập Niết Bàn.”

Từ tâm của Đức Phật được trang trải đến cho hàng đệ tử. Tinh thần giáo dục của Đức Phật được trao truyền đến từng người học trò và bổn phận trách nhiệm của một bậc Thầy cao cả không quên nhắn nhủ, khích lệ đệ tử quán triệt con đường tiến thân của chính mình.

Để khơi dậy một tâm thức hoạt dụng lời Phật dạy, chúng ta hãy thanh thản chiêm nghiệm đời sống của Đức Phật đối với hàng đệ tử của Ngài. Nơi đó, biết bao suối nguồn yêu thương được tuôn chảy, bao nhiêu tâm tình được truyền trao và bao nhiêu lời khuyến tấn dạy dỗ chí thành chí thiết. Đức Phật không bao giờ dùng sức mạnh để đối xử với mọi người, không bao giờ bắt ép bất cứ một ai, dù đó là người đệ tử thân tín của Đức Phật. Từ tâm của Đức Phật được ban trải, được biển lộ, được thi thiết tự nhiên. Có lần vào ngày bố tát - tụng giới chúng Tăng đã vân tập đầy đủ, Đức Thế Tôn cũng thiền tọa đúng giờ. Thay vì Đức Phật trùng tuyên giới trong giờ bố tát ấy, thì Đức Phật ngồi im lặng. Thời gian trôi qua, đại chúng lo âu, Ngài Mục Kiền Liên nghi ngờ, liền vận thần thông dùng thiên nhãn quán chiếu trong đại chúng, thấy có vị phạm giới mà không đi ra, lập tức Ngài Mục Kiền Liên đến nắm y vị Tỳ Kheo ấy kéo ra ngoài. Thấy vậy Đức Phật dạy:

“Này Mục Kiền Liên, con chớ có làm như vậy. Không nên có thái độ, hành động không xứng đáng là một vị Tỳ Kheo. Con chớ có dùng sức mạnh đối với bất cứ ai. Trong đây, nếu có vị Tỳ Kheo nào phạm giới thì con hãy dùng mọi phương tiện để cho vị Tỳ Kheo ấy biết mình phạm giớitự giác đi ra, hoặc sám hối đúng pháp để được thanh tịnh lại. Con phải chỉ vẽ nhu nhuyến, từ hòa, ái ngữ, không được thô lỗ, cộc cằn. Con phải chỉ dạy cho vị Tỳ Kheo ấy tự biết mình có lỗi mà sám hối.”

Đây là giá trị của chất liệu yêu thương kính trọng, là đại bi tâm tươi mát gởi tặng đến tất cả, đâu chúng ta không thấy cái ân đức mà nhớ ơn để đền ơn ! Ấy là cội nguồn, là tự tánh thiện của con người chúng ta.

Đoàn thể Tăng già thời Đức Phật đã thấm nhuần giáo pháp và sống trong giá trị cao thượng của giáo pháp. Sống đúng ngôn từ Đức Phật giảng dạy - khẩu giáo. Sống đúng thân hành - thân giáo Đức Phật thể hiện qua tứ oai nghi - đi, đứng, ngồi, nằm: “Đi như tượng vương, đứng thẳng tắp như vách tường, ngồi vững vàng như chuông úp và nằm bên hông phải như sư tử chúa.” Từ đây, chúng ta thấy cái ân, cái nghĩa, cái từ hòa chiếu cố của Đức Phật đến hàng đệ tự như thế nào.

Một hôm, có vị Tỳ Kheo bị bịnh kiết lỵ, thân thể mềm nhũn như sợi bún gần như kiệt sức, Đức Phật hay tin Ngài đích thân đến thăm. Từ xa, vị Tỳ Kheo thấy Đức Thế Tôn đi đến, ý muốn ngồi dậy đảnh lễ, nhưng Đức Phật dạy, hãy cứ tự nhiên, đừng cố gắnghao tổn sức lực trong khi đang bịnh. Rồi Đức Phật thuyết pháp Thất giác chi: (Trạch pháp giác chi. Tinh tấn giác chi. Hỷ giác chi. Khinh an giác chi. Niệm giác chi. Định giác chi. Xả giác chi) bằng ngôn giáo từ hòa, an ủi, khích lệ làm vị Tỳ Kheo phấn chấn tâm tư, thân liền khỏe mạnh, tâm được an tịnh.

Đó chính là tánh đức Từ bi, là suối nguồn yêu thương được vỗ về chăm sóc mà không phân biệt ngôi vị Thánh phàm, duy chỉ có một lòng cứu độ. Ai trong chúng ta có sống thật, sống chân thành, sống hy sinh vì người khác thì mới thấy được cái ân, cái đức, cái tấm lòng tôn kínhĐức Phật đã thể hiện đến với chúng Tăng qua những cử chỉ, lời nói, hành động thường nhật. Có lần trên con đường hóa độ, ngồi nghỉ trong khu nhà trống, Đức Thế Tôn thấy y của một vị Tỳ Kheo bị rách, Ngài bèn lấy kim chỉ và dạy các vị Tỳ Kheo hãy căng tấm y và cùng nhau khâu lại tấm y rách ấy cho vị Tỳ Kheo kia. Đức Phật tự tay khâu chỉ, vá kim một cách cẩn trọng. Vá xong, Đức Phật trao y lại cho vị Tỳ Kheo một cách tự nhiên, bình thường. Cái ân ấy, cái đức ấy ai trong chúng ta hôm nay có nghĩ nhớ để biết ơnđền ơn ? Dầu biết rằng, Đức Thế Tôn không bắt ai phải biết ơn để trả ơn cho Ngài, nhưng trong cuộc sống này, trong lẽ sinh tồn cộng trú, tương quan tương duyên với nhau, chúng ta đâu muốn mình là kẻ vong ân bội nghĩa.

Chính vì giá trị cao quý, tất yếu của sự nhớ ơn và đền ơn mà Tứ Trọng Ân được nhắc đi nhắc lại nhiều lần để chúng ta phải ghi lòng tạc dạ, đừng xao lãng bốn ân sâu nặng ấy: Ân hóa độ cao dầy của Đức Phật. Ân sinh thành dưỡng dục của Cha Mẹ. Ân khai sinh giới thân huệ mạng của Thầy Tổ và Ân cúng dường, cung cấp bảo bọc của đàn na thí chủ pháp giới chúng sanh. Có lẽ nào chúng ta không nhớ về cội nguồn, nơi đã sinh thành một đời sống tâm linh cao thượng. Nơi mà cội cây Bồ Đề được ươm mầm, trồng trọt, vun quén để có tàn cây tỏa rộng cao mát hôm nay. Nơi mà tự chốn uyên nguyên suối nguồn đã mang giọt nước tươi mát đến cho mọi người để làm vơi bớt nỗi đói khát đốt cháy thân tâm của con người trên thế gian này. Đó chính là tánh đức Từ biĐức Phật đã trang trải. Một đời sống dung dị, bình thường; bình thường đến độ mà người gặp Đức Phật, nhưng không nhận ra Đức Phật đang ở trước mặt mình. Đức Phật có thể sống một mình, đi khất thực một mình và làm mọi công việc một mình, không cần sự nhờ vả của ai. Có lần trên con đường du hóa, đến lúc chiều tối Đức Phật vào nhà một người thợ làm đồ gốm xin được tá túc qua đêm. Người thợ làm đồ gốm bằng lòng chỉ cho một căn phòng ngoài để Đức Phật tạm trú qua đêm. Nhưng cũng cùng trưa hôm đó, trong căn phòng đã có vị du sĩờ đến xin trú ngụ trước và đang tọa thiền nơi góc phòng bên phải. Thấy vậy, Đức Phật lên tiếng xin vị du sĩờ cho phép được cùng ở chung, đến khi biết ra thì vị du sĩ này nghe danh Đức Phật và đi tìm Đức Phật để xin được xuất gia làm đệ tử của Ngài. Sau thời thuyết pháp hóa độ, người du sĩ kia đắc quả Thánh, thành Tỳ Kheo trong Tăng đoàn của Đức Phật. Giản dị là nếp sống của các bậc Thánh. Đơn sơ là lẽ đạo của Thánh hiền. Đó chính là cái ân, cái đức mà chúng ta hôm nay phải học, phải noi theo tấm gương của bậc Thầy cao cả, của Bậc Đạo Sư tôn quý nhất trên thế gian này.

Dù cho chư vị đệ tử của Đức Phật còn sinh tiền, hay sau khi nghe bài pháp Đức Phật thuyết giảng, giáo hóa rồi, xả bỏ báo thân, tất cả đều được lợi ích, tất cả đều hướng tâm trên con đường tối thượng. Chẳng hạn như một hôm có người thanh niên đến đảnh lễ Đức Thế Tôn, đảnh lễ xong quỳ gối ngồi sang một bên, Đức Phật hỏi nguyên doý muốn gì. Người thanh niên ấy đáp là muốn xuất gia làm đệ tử với Đức Thế Tôn. Nghe vậy, Đức Phật hỏi người thanh niên muốn xuất gia mà đã có y bát chưa, đã trong sạch thân tâm chưa, và Đức Phật thuyết một bài pháp ngắn về công đức của người xuất gia. Nghe xong, người thanh niên lấy làm hạnh phúc, tâm tư cởi mở một nguồn hỷ lạc rạt rào trong lòng. Người thanh niên đảnh lễ Đức Thế Tôn xin về nhà để sắm y bát và sẽ trở lại gia nhập vào hàng Tăng đoàn, nhưng sau đó thì người thanh niên xả bỏ báo thân mà chưa được xuất gia. Thấy vậy, các vị Tỳ Kheo bạch Phật: Vì sao người thanh niên lại xả bỏ báo thân đột ngột như vậy, và được thác sinh về thế giới nào ? Đức Phật dạy: Người thanh niên sau khi phát tâm xuất gia, ấy là một nhơn duyên thù thắng, lại nghe được giáo pháp công đức của người xuất gia tăng thêm niềm tin trong Phật pháp, công đức gấp đôi, nhờ phước lành này mà tâm thức của người thanh niên thác sinh lên cung trời hưởng phước lạc. Còn sự xả bỏ báo thân dưới mọi hình thức đều giống nhau, có nghĩa là phương tiện để kết thúc một sự sống, điều quan trọng là gìn giữ tâm tư thanh tịnh, không phiền, không nhiệt mà thanh thản tự tại. Đó là lời Phật dạy, là cái ân, cái đức mà chúng ta là hàng đệ tử phải nhớ để báo đền trong muôn một.

Truyền thống Phật giáo Tây Tạng thừa sự, cúng dường, đảnh lễ tôn kính vị Thầy Bổn sư của mình thì cũng giống như thừa sự, đảnh lễ tôn kính một đấng Thế Tôn. Ơn Thầy giáo dưỡng, khai sinh giới thân huệ mạng đâu không mong có ngày đền đáp.

Ngày Về Nguồn là dịp để Tăng chúng, pháp lữ thăm hỏi với nhau và cùng nhau ôn lời Phật dạy, lặp lại ý Tổ khuyên mà tô bồi vun quén cho đạo tình ngày thêm thắm đượm. Đó là cái ân, cái đức chúng ta là người con Phật xin nguyện đáp đền.

Nguyên Siêu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 112)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 136)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 153)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 158)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 185)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 233)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 221)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 232)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 225)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 263)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 249)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 211)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 158)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 187)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 209)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 294)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 306)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 386)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 360)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 341)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 352)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 609)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 576)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 850)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 447)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 681)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 500)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 487)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 388)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 505)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 466)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 653)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 449)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 852)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 574)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 579)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 971)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 681)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 575)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 876)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 546)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 677)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 651)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 626)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 641)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 640)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 535)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 709)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1021)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1199)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant