Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Bài Đọc Ba

19 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 21834)
Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Bài Đọc Ba

NGÀY VỀ NGUỒN - HIỆP KỴ LỊCH ĐẠI TỔ SƯ

Bài Đọc Ba

{Xem bản PDF}

Trong thế gian, con người ai cũng có Cha, có Mẹ, có Ông Bà Tổ Tiên, người còn sống thì lo phụng dưỡng sớm hôm, người quá vãng thì lo hương hoa, giỗ cúng. Ấy là cái nhân, cái nghĩa, muôn đời trong cuộc sống con người. Nền văn hóa dân tộc Việt Nam không quên cái nhân, cái nghĩa ấy. Hằng năm, cộng đồng người Việt tị nạn khắp nơi trên thế giới đều tổ chức lễ tưởng niệm đức Quốc Tổ Hùng Vương, đức Thánh Tổ Trần Hưng Đạo, Hai Bà Trưng... Những ngày lễ đó làm sống lại tánh đức, hùng khí của chư vị anh hùng, liệt nữ dân tộc Việt, để cho lớp người hôm nay được chiêm nghiệm lại cái hùng, cái dũng, cái tấm lòng vì nước quên mình, cái tính đức hy sinh cao cả bảo vệ giang sơn Tổ quốc. Đồng thời lễ tưởng niệm để cho đàn con cháu nhớ cái ân, cái đức của Tiền nhân mà mong đền đáp đúng nghĩa của đạo làm người, mà nhất là làm người Việt Nam, luôn tưởng nhớ về cội nguồn Tổ tiên, nòi giống. Đây là một nền văn hóa tâm linh, một nếp sống tinh thần cao quý mà suốt một dòng lịch sử mấy ngàn năm qua luôn sáng chói và tồn tục sâu xa trong mỗi tâm thức của người con dân Việt Nam.

Cũng vậy, trong chốn nhà chùa, Thầy Tổ Bổn Sư là Người đã từng dày công xây dựng, kiến tạo nếp sống đạo hạnh nơi chốn Thiền môn, Tự viện, cho hàng đệ tử. Thầy Tổ đã nuôi dưỡng giới thân huệ mạng thành bậc tai mắt của trời người, công đức ấy của Thầy Tổ, Bổn Sư lẽ nào hàng đệ tử, hậu học lại không tưởng nhớ.

Phật Giáo Việt Nam, kể từ khi mới du nhập đến nay, có nhiều Tông phái, Hệ phái. Do vậy, quý Thầy thuộc hệ phái nào thì có Tổ Sư, người khai sáng ra hệ phái ấy, dòng Kệ ấy mà luôn tưởng niệm, Hiệp Kỵ vào thời gian vị Tổ Sư viên tịch. Thí dụ như, pháp phái Liễu Quán, Lâm Tế Tào Động, Chúc Thánh, Thảo Đường...

Tổ Liễu Quán là đời thứ 35 dòng Lâm Tế Chánh Tôn, Ngài khai sơn chùa Thiên Thai Thiền Tôn, Huế. Bài Kệ pháp phái của Ngài như sau:

Thiệt Tế đại đạo, tánh hải thanh trừng

Tâm nguyên quảng nhuận, đức bổn từ phòng

Giới định phước huệ, thể dụng viên thông

Vĩnh siêu trí quả, mật khế thành công

Truyền trì diệu lý, diễn xướng chánh tôn

Hạnh giải tương ứng, đạt ngộ chơn không.

Đây là bài Kệ truyền thừa từ Thầy xuống đệ tử. Tổ Liễu Quán húy là Thiệt Diệu, chữ đầu của bài Kệ, rồi Tổ truyền xuống đệ tử là Tế..., và cứ như vậy cho hết bài Kệ. Ngày nay, phần đông Phật tử miền Trung có pháp danh là chữ Tâm, chữ Nguyên, chữ Quảng...

Hành trạng tu tập sự chứng đắc của Tổ, như chúng ta thấy, Thầy của Tổ là Tử Dung Hòa thượng dạy Tổ tham cứu câu: “Vạn pháp quy nhứt, nhứt quy hà xứ?” Vạn pháp dồn về một, vậy một dồn về chỗ nào ? Tổ mất cả thời gian 8-9 năm để tham cứu nhưng chưa tỏ ngộ. Về sau, nhân đọc truyện Truyền Đăng Lục đến câu: “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất nội xứ”, nhân đấy mà tỏ ngộ. Đến năm 1708, Tổ gặp lại Tử Dung Hòa thượng và trình Hòa thượng ấn chứng. Hòa thượng nói:

“Huyền nhai tán thủ, tự khẳng thừa đương. Tuyệt hậu tái tô, khi quân bất đắc.”

Người bước ra trên đỉnh vực thẳm mà buông thả tay ra, sự chết sống tự mình phải nhận lấy, chết đi sống lại mới không bị người ta lừa đảo.

Hành trạng tu chứng của Tổ còn nhiều, đây chỉ là một vài dẫn chứng tiêu biểu để chúng ta cùng chiêm nghiệm. Về sau, trước khi Tổ thị tịch, Ngài để lại bài Kệ:

“Thất thập dư niên thế giới trung

Không không sắc sắc diệc dung thông

Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý

Hà tất bôn man vấn Tổ tông.”

Dịch:

Ngoài bảy mươi năm trong thế giới

Không không sắc sắc thảy dung thông

Ngày nay nguyện mãn về nơi cũ

Nào phải ân cần hỏi Tổ tông.”

(Sđd - tr 205-206)

Được tin Tổ thị tịch, vua sắc phong bia ký và Từ hiệu: Đạo Hạnh Thụy Chánh Giác Viên Ngộ Hòa thượng.

Hàng năm môn đồ pháp phái đều tổ chức lễ tưởng niệm Tổ.

Tổ Minh Hải Pháp Bảo khai sơn chùa Chúc Thánh, Quảng Nam. Bài Kệ truyền thừa như sau:

Minh thiệt pháp toàn chương

Ấn chơn như thị đồng

Chúc Thánh thọ thiên cửu

Kỳ quốc tộ địa trường

Đắc chánh luật vi tuyên

Tổ đạo hạnh giải thông

Giác hoa bồ đề thọ

Sung mãn nhơn thiên trung

Tổ Nghĩa Huyền Lâm Tế với Kệ truyền thừa:

Tổ đạo giới định tôn

Phương quảng chứng viên thông

Hạnh siêu minh thực tế

Liễu đạt ngộ chơn không

Như nhựt quang thường chiếu

Phổ châu lợi ích đồng

Tín hương sanh phước huệ

Tương kế chấn từ phong.

Trên đây chỉ là đôi dòng pháp phái và ít Kệ truyền thừa mà thôi. Tuy nhiên, chừng ấy cũng đủ cho chúng ta thấy mà đem tâm thành, ý chánh mà giỗ, mà cúng vào những ngày húy, năm kỵ để đền đáp ân sâu nghĩa trọng của chư vị Lịch Đại Tổ Sư.

Sự cúng kính, Hiệp Kỵ là một lễ nghi nhắn nhủ đàn hậu duệ luôn tưởng nhớ công đức của Tổ Sư, cũng như quý Ngài trong môn phái có dịp gặp lại nhau hàn huyên, thăm hỏi; đó là cái tình của người sống và cái ân với người đã khuất, chính việc làm này là nét văn hóa truyền thống cao đẹp của dân tộc Việt Nam, là nếp sống hài hòa, tương thuận, tôn ti trật tự của xã hội con người, giữ gìn giềng mối Tông phong gia tộc. Cứ mỗi lần Từ Đường của dòng họ A, dòng họ B... có lễ Hiệp Kỵ của dòng tộc ấy thì tất cả các hàng con, cháu, chắt... bà con xa, bà con gần từ bên nội đến bên ngoại thảy đều kéo nhau về mà tham dự lễ Hiệp Kỵ Tổ Tiên dòng họ. Kẻ lớn người nhỏ, tay bắt mặt mừng, trò chuyện, hỏi han. Trên bàn thờ Tổ tiên thì đèn chưng rực rỡ, hương trầm nghi ngút, bông hoa trà quả đủ màu. Giữa thế giới người sống như hòa quyện vào thế giới tâm linh của người đã khuất. Tâm tình của người sống dường như cảm thông được nỗi niềm của người đã ra đi, bàn thờ trên cao là bài vị của Cao Huyền Tổ Khảo, bên phải là di ảnh của ông Nội bà Nội, bên trái là di ảnh của ông Ngoại bà Ngoại, lần lượt di ảnh những người quá cố được tôn thờ theo thứ tự trên án cao của nhà Từ Đường. Trong dịp này, mối thâm tình trong dòng họ được thắt chặt, gần gũi hơn, dù biết rằng sau lễ Hiệp Kỵ mỗi người đi mỗi ngả để lo cho đời sống gia đình. Đây chính là cái ân, cái đức mà hàng con cháu có dịp để tưởng nhớ.

Khoa nghi của buổi lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư vô cùng trang nghiêmxúc động. Lời văn thắm thiết, siêu phàm để nói lên cái lẽ vô thường, diệt sinh, sinh diệt, giữa chốn hồng trần, phù vân ảo ảnh. Sự đến, sự đi, cái còn, cái mất như mộng, như huyễn, phù hư chẳng thật, để từ đó thấy lẽ đạo uyên thâm, sự thị hiện, hóa thân của chư Tổ Đức là huyền vi, mầu nhiệm bất khả tư nghì. Chúng ta hãy nghe cung bậc siêu nhiên, ý văn thoát tục để xướng cúng chư Tổ mà thấy lòng thanh thản giải thoát.

“Cái văn: Vô thường thị thường, Thế Tôn thượng song lâm diệt độ. Tịch diệt phi diệt, Đạt Ma tằng chích lý Tây quy. Sanh tự hà lai, tử tùng hà khứ ?”

Từng nghe, cái vô thường chính là thường, đức Thế Tôn diệt độ nơi chốn song lâm. Tịch diệt nhưng chẳng phải diệt, Tổ Đạt Ma đã từng quảy dép về Tây, sinh từ đâu lại, chết đi về đâu?

Sự hóa thân của chư vị Tổ đức không lưu hình ảnh, chẳng nệ cố tình, cũng không hữu ý, tự tại như nhiên, như bài thơ của Hương Hải Thiền Sư:

“Nhạn quá trường không

Ảnh trầm hàn thủy

Nhạn vô di tích chi ý

Thủy vô lưu ảnh chi tâm”

Dịch:

“Nhạn liệng giữa không

Bóng chìm dưới nước

Nhạn không để dấu ở lại

Nước chẳng lưu bóng làm chi.”

(Việt Nam Sử Lược - T.T. Mật Thể, tr 181)

Để nói lên tấm lòng thành kính, tán thán giác linh an nhiên tự tại qua bài Cung Bạch:

“Cung duy: Giác linh nhất tánh trạm nhiên, vạn duyên không tịch. Thác ngũ ấm chi hữu, liễu tứ đại chi bổn không. Thuận thế vô thường yểm quy chơn giới. Thâu Đàm hoa ư thử độ. Thục thiện quả ư Kỳ viên. Nguyện bằng nhất lụ chi hương vân. Dụng trở Tam thừa chi giác ngộ. Đốn minh huyễn mộng, đổng hiển chơn nguyên, quyết sinh tửgiai không, liễu khứ lai nhi tự tại.”

Thành kính, giác linh nhất tánh lặng trong, vạn duyên rỗng suốt. Thọ lấy năm ấm chẳng phải là có, hiểu rõ tứ đại chẳng phải vốn không. Thuận lẽ vô thường không về chơn giới. Hoa Đàm không nở nơi đây. Thiện quả chín mùi tinh xá. Nguyện cho một nén hương thơm, giúp nên Tam thừa đường giác. Liền rõ mộng huyễn, hiểu rộng gốc chơn, sanh tử chắc chắc vốn không, rõ ràng đến đi tự tại.

Hiệp Kỵ chư Lịch Đại Tổ Sư để tưởng niệm công hạnh của chư Tổ, qua một thân một bóng dằng dặc chân mây, chích ảnh cô thân vạn dặm. Công ơn là đó, nhân nghĩa là đó.

Nhất bát thiên gia phạn

Cô thân vạn lý du

Kỳ vị sanh tử sự

Giáo hóa độ xuân thu

Dịch:

Một bát cơm ngàn nhà

Thân đi muôn dặm xa

Chỉ vì việc sinh tử

Giáo hóa chóng ngày qua

Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư để thấy cái hạnh, cái nguyện, cái tu, cái chứng, cái đến, cái đi không lưu vết tích của chư Tổ. Cái mà kẻ phàm tình chưa làm được, để từ đó mà phải học thêm, tu thêm, noi gương Tổ đức, qua bài Kệ:

Thiền thất đăng quang lãnh

Kinh song nguyệt ảnh không

Nhất triêu hề chích lý

Thiên tải mích vô tung

Dịch:

Thiền thất bóng đèn lạnh

Kinh song ánh trăng không

Một sớm mai quảy dép

Nghìn trùng chẳng vết trông

Dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại, đã ghi lại những bậc Kỳ Túc Thiền gia, mà hàng hậu học chúng ta phần lớn đều biết, ấy là Đức Đệ Nhất Tăng Thống Đại Lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, Đức Đệ Nhị Tăng Thống Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, Đức Đệ Tam Tăng Thống Đại Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, Đức Phó Tăng Thống Đại Lão Hòa Thượng Thích Thiện Hòa... cứ đến ngày mồng 5 Tết, các Tòng Lâm, Tự Viện, Tổ Đình của Sơn Môn Huế đều cử hành lễ Hiệp Kỵ để tưởng nhớ những hình bóng thân yêu, quý kính của chúng Tăng, của Đạo pháp, mà một thời công hạnh của quý Ngài đã tỏa sáng nơi chốn rừng Thiền âm u, tĩnh mịch. Từ Tổ Đình Thiền Tôn đến Tường Vân, Linh Mụ... tất cả đều lưu giữ hình bóng quý Ngài như một Pháp bảo trân quý vô giá. Hình ảnh ấy là bài học tinh cần, là ngôn từ sách tấn hằng ngày cho chúng tăng trên tinh thần tu tập, hoằng pháp.

Để ôn lại công hạnh của chư Tổ, Tôn Sư, một thời đã giáo huấn mà cứ mỗi lần Hiệp Kỵ, chư Sơn Thiền Đức đều trùng tuyên lại những lời sách tấn, giáo dục Tăng Ni. Đức Đệ Nhị Tăng Thống Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên dạy:

“Đạo Pháp tồn tại, không chỉ ở những hình thức Chùa Tháp, lễ nghi, Kinh điển. Mặc dù Kinh điển là kim chỉ nam hướng dẫn ta đến đạo quả vô thượng Bồ Đề. Nhưng sự tồn tại đích thực chính là ở sự thể hiện Đạo phong. Những nếp sống gương mẫu của các bậc Tăng già nghiêm trì giới luật và biết tận lực phục vụ Chánh pháp, để Chánh pháp mãi mãi tồn tại với thế gian và làm điều lợi ích chúng sanh...” (Thư Gởi Tăng Ni, nhân mùa An Cư 1976. Kỷ Yếu Tang Lễ. Tr. 13)

Trong bài Minh Khắc nơi tháp của Tổ đã nói lên đức hạnh hoằng hóa một thời lưu danh cho hậu thế noi gương:

“Từ Phiếm Xuân Phong

Bi Triêm Hạ Vũ

Thu Nguyệt Cô Viên

Đông Tùng Độc Tú...”

Dịch:

- “Từ phong là gió xuân về

Bi lòng mưa thắm bốn bề hạ rang

Trăng thu rọi ánh tâm quang

Tùng đông xanh thẳm giữa ngàn tuyết sương...”

“Phi Y Trì Bát

Lợi Phổ Nhân Thiên

Phú Kệ Đàm Kinh

Đạo Thông Tri Tố

Tăng Cang Nhĩ Nhật

Hải Chúng Hàm Y...”

Dịch:

- “Ca sa bình bát ân cần

Lợi người lợi vật thiên nhân cúi đầu

Đàm Kinh thuyết Kệ thâm sâu

Người Tăng kẻ tục đạo mầu cảm thông.

Tăng cang thuở ấy vua phong

Đạo đời thất chúng một lòng quy y...”

Thi sĩ Trụ Vũ đã cảm niệm Tổ bằng những vần thơ chí thành. Sự thành tâm được cô đọng lại như những hạt ngọc xâu thành chuỗi để cảm thành lời thơ:

“Một trăm lẻ hai tuổi

Hơn thế kỷ làm người

Thanh tịnh, thanh tịnh giới

Trang nghiêm, trang nghiêm đời

Thiền định, đại thiền định

Du hý nước mây chơi

Giới, quét sạch tâm kỉnh

Huệ, mở toang mặt trời

Mặt trời huệ minh chiếu

Quạt vàng phất phất vui

Trong cánh quạt chiếu diệu

Mười phương hoa tuyệt vời...

Một ánh đạo đông phương

Thêm một lần vụt tắt

Đại Hòa Thượng Thuyền Tôn

Thiền tịnh Ba La Mật.

Tuy tướng mạo thoảng mất

Thể đạo vẫn trường tồn

Thường trụ giữa quê hương

Đạo tràng Tam Thế Phật.”

(10 tháng Giêng Kỳ Mùi - Phật tử Trụ Vũ - Kỷ Yếu Tang Lễ, Tr. 41-42)

Giờ đây đang mùa An Cư Kiết Hạ, chúng Tăng các Tự Viện hầu hết đều An Cư để trưởng dưỡng đạo tâm, trang nghiêm giới đức, cũng như thể hiện tình thương nuôi lớn muôn loài. Đây chính là đức tánh Từ Bi được ban bố cho đến tất cả.

Trong Chánh điện vang rền tiếng chuông trống Bát Nhã thỉnh Phật thượng đường, thỉnh chư đại Tăng bước vào cửa Ba La Mật để triển khai đàn tràng pháp hội. Tiếng chuông mõ, hòa âm cùng tiếng niệm Nam Mô A Di Đà Phật của đại chúng đều đặn, nhịp nhàng, âm ba thanh thoát, làm lắng đọng bao lớp bụi trần đã phủ mờ tâm thức từ bao vạn kiếp. Tôn tượng Đức Thế Tôn ngự tọa trên đài sen, đang mỉm miệng cười từ ái, hiền hòa. Ánh mắt Từ Bi của Ngài đang nhìn xuống chúng sanh như xoa dịu bao nỗi đau thương, trong cảnh đời nhiều nỗi mưa sa bão táp, mà vỗ vềan ủi cho lòng được lắng đọng thanh lương. Chúng con xin chắp tay, cúi đầu, cám ơn Phật đến vô lượng hằng hà sa. Lời kinh chấm dứt, chuông mõ kết thúc, tang linh dừng lại, không gian trầm mặc, yên lặng, hòa tan vào vô lượng cảnh giới Phật tâm.

Nguyên Siêu

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1418)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1312)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1393)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1373)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1275)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1335)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1343)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 2031)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1380)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1396)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1276)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1525)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1362)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1231)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1203)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1265)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1247)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1393)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1115)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1111)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1169)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1301)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1328)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1100)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1206)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1146)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1291)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1283)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1411)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1511)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1265)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1253)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1384)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1416)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1329)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1658)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1305)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1310)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1343)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1193)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1220)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1351)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1464)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1519)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1682)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1548)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1437)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1231)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
(Xem: 1343)
Người tu ở một mình hay cùng với đại chúng, chuyên tu hay đi vào đời để hoằng phápsở thích, hạnh nguyện riêng của mỗi người.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant