Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Bài Đọc Ba

19 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 21745)
Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Bài Đọc Ba

NGÀY VỀ NGUỒN - HIỆP KỴ LỊCH ĐẠI TỔ SƯ

Bài Đọc Ba

{Xem bản PDF}

Trong thế gian, con người ai cũng có Cha, có Mẹ, có Ông Bà Tổ Tiên, người còn sống thì lo phụng dưỡng sớm hôm, người quá vãng thì lo hương hoa, giỗ cúng. Ấy là cái nhân, cái nghĩa, muôn đời trong cuộc sống con người. Nền văn hóa dân tộc Việt Nam không quên cái nhân, cái nghĩa ấy. Hằng năm, cộng đồng người Việt tị nạn khắp nơi trên thế giới đều tổ chức lễ tưởng niệm đức Quốc Tổ Hùng Vương, đức Thánh Tổ Trần Hưng Đạo, Hai Bà Trưng... Những ngày lễ đó làm sống lại tánh đức, hùng khí của chư vị anh hùng, liệt nữ dân tộc Việt, để cho lớp người hôm nay được chiêm nghiệm lại cái hùng, cái dũng, cái tấm lòng vì nước quên mình, cái tính đức hy sinh cao cả bảo vệ giang sơn Tổ quốc. Đồng thời lễ tưởng niệm để cho đàn con cháu nhớ cái ân, cái đức của Tiền nhân mà mong đền đáp đúng nghĩa của đạo làm người, mà nhất là làm người Việt Nam, luôn tưởng nhớ về cội nguồn Tổ tiên, nòi giống. Đây là một nền văn hóa tâm linh, một nếp sống tinh thần cao quý mà suốt một dòng lịch sử mấy ngàn năm qua luôn sáng chói và tồn tục sâu xa trong mỗi tâm thức của người con dân Việt Nam.

Cũng vậy, trong chốn nhà chùa, Thầy Tổ Bổn Sư là Người đã từng dày công xây dựng, kiến tạo nếp sống đạo hạnh nơi chốn Thiền môn, Tự viện, cho hàng đệ tử. Thầy Tổ đã nuôi dưỡng giới thân huệ mạng thành bậc tai mắt của trời người, công đức ấy của Thầy Tổ, Bổn Sư lẽ nào hàng đệ tử, hậu học lại không tưởng nhớ.

Phật Giáo Việt Nam, kể từ khi mới du nhập đến nay, có nhiều Tông phái, Hệ phái. Do vậy, quý Thầy thuộc hệ phái nào thì có Tổ Sư, người khai sáng ra hệ phái ấy, dòng Kệ ấy mà luôn tưởng niệm, Hiệp Kỵ vào thời gian vị Tổ Sư viên tịch. Thí dụ như, pháp phái Liễu Quán, Lâm Tế Tào Động, Chúc Thánh, Thảo Đường...

Tổ Liễu Quán là đời thứ 35 dòng Lâm Tế Chánh Tôn, Ngài khai sơn chùa Thiên Thai Thiền Tôn, Huế. Bài Kệ pháp phái của Ngài như sau:

Thiệt Tế đại đạo, tánh hải thanh trừng

Tâm nguyên quảng nhuận, đức bổn từ phòng

Giới định phước huệ, thể dụng viên thông

Vĩnh siêu trí quả, mật khế thành công

Truyền trì diệu lý, diễn xướng chánh tôn

Hạnh giải tương ứng, đạt ngộ chơn không.

Đây là bài Kệ truyền thừa từ Thầy xuống đệ tử. Tổ Liễu Quán húy là Thiệt Diệu, chữ đầu của bài Kệ, rồi Tổ truyền xuống đệ tử là Tế..., và cứ như vậy cho hết bài Kệ. Ngày nay, phần đông Phật tử miền Trung có pháp danh là chữ Tâm, chữ Nguyên, chữ Quảng...

Hành trạng tu tập sự chứng đắc của Tổ, như chúng ta thấy, Thầy của Tổ là Tử Dung Hòa thượng dạy Tổ tham cứu câu: “Vạn pháp quy nhứt, nhứt quy hà xứ?” Vạn pháp dồn về một, vậy một dồn về chỗ nào ? Tổ mất cả thời gian 8-9 năm để tham cứu nhưng chưa tỏ ngộ. Về sau, nhân đọc truyện Truyền Đăng Lục đến câu: “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất nội xứ”, nhân đấy mà tỏ ngộ. Đến năm 1708, Tổ gặp lại Tử Dung Hòa thượng và trình Hòa thượng ấn chứng. Hòa thượng nói:

“Huyền nhai tán thủ, tự khẳng thừa đương. Tuyệt hậu tái tô, khi quân bất đắc.”

Người bước ra trên đỉnh vực thẳm mà buông thả tay ra, sự chết sống tự mình phải nhận lấy, chết đi sống lại mới không bị người ta lừa đảo.

Hành trạng tu chứng của Tổ còn nhiều, đây chỉ là một vài dẫn chứng tiêu biểu để chúng ta cùng chiêm nghiệm. Về sau, trước khi Tổ thị tịch, Ngài để lại bài Kệ:

“Thất thập dư niên thế giới trung

Không không sắc sắc diệc dung thông

Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý

Hà tất bôn man vấn Tổ tông.”

Dịch:

Ngoài bảy mươi năm trong thế giới

Không không sắc sắc thảy dung thông

Ngày nay nguyện mãn về nơi cũ

Nào phải ân cần hỏi Tổ tông.”

(Sđd - tr 205-206)

Được tin Tổ thị tịch, vua sắc phong bia ký và Từ hiệu: Đạo Hạnh Thụy Chánh Giác Viên Ngộ Hòa thượng.

Hàng năm môn đồ pháp phái đều tổ chức lễ tưởng niệm Tổ.

Tổ Minh Hải Pháp Bảo khai sơn chùa Chúc Thánh, Quảng Nam. Bài Kệ truyền thừa như sau:

Minh thiệt pháp toàn chương

Ấn chơn như thị đồng

Chúc Thánh thọ thiên cửu

Kỳ quốc tộ địa trường

Đắc chánh luật vi tuyên

Tổ đạo hạnh giải thông

Giác hoa bồ đề thọ

Sung mãn nhơn thiên trung

Tổ Nghĩa Huyền Lâm Tế với Kệ truyền thừa:

Tổ đạo giới định tôn

Phương quảng chứng viên thông

Hạnh siêu minh thực tế

Liễu đạt ngộ chơn không

Như nhựt quang thường chiếu

Phổ châu lợi ích đồng

Tín hương sanh phước huệ

Tương kế chấn từ phong.

Trên đây chỉ là đôi dòng pháp phái và ít Kệ truyền thừa mà thôi. Tuy nhiên, chừng ấy cũng đủ cho chúng ta thấy mà đem tâm thành, ý chánh mà giỗ, mà cúng vào những ngày húy, năm kỵ để đền đáp ân sâu nghĩa trọng của chư vị Lịch Đại Tổ Sư.

Sự cúng kính, Hiệp Kỵ là một lễ nghi nhắn nhủ đàn hậu duệ luôn tưởng nhớ công đức của Tổ Sư, cũng như quý Ngài trong môn phái có dịp gặp lại nhau hàn huyên, thăm hỏi; đó là cái tình của người sống và cái ân với người đã khuất, chính việc làm này là nét văn hóa truyền thống cao đẹp của dân tộc Việt Nam, là nếp sống hài hòa, tương thuận, tôn ti trật tự của xã hội con người, giữ gìn giềng mối Tông phong gia tộc. Cứ mỗi lần Từ Đường của dòng họ A, dòng họ B... có lễ Hiệp Kỵ của dòng tộc ấy thì tất cả các hàng con, cháu, chắt... bà con xa, bà con gần từ bên nội đến bên ngoại thảy đều kéo nhau về mà tham dự lễ Hiệp Kỵ Tổ Tiên dòng họ. Kẻ lớn người nhỏ, tay bắt mặt mừng, trò chuyện, hỏi han. Trên bàn thờ Tổ tiên thì đèn chưng rực rỡ, hương trầm nghi ngút, bông hoa trà quả đủ màu. Giữa thế giới người sống như hòa quyện vào thế giới tâm linh của người đã khuất. Tâm tình của người sống dường như cảm thông được nỗi niềm của người đã ra đi, bàn thờ trên cao là bài vị của Cao Huyền Tổ Khảo, bên phải là di ảnh của ông Nội bà Nội, bên trái là di ảnh của ông Ngoại bà Ngoại, lần lượt di ảnh những người quá cố được tôn thờ theo thứ tự trên án cao của nhà Từ Đường. Trong dịp này, mối thâm tình trong dòng họ được thắt chặt, gần gũi hơn, dù biết rằng sau lễ Hiệp Kỵ mỗi người đi mỗi ngả để lo cho đời sống gia đình. Đây chính là cái ân, cái đức mà hàng con cháu có dịp để tưởng nhớ.

Khoa nghi của buổi lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư vô cùng trang nghiêmxúc động. Lời văn thắm thiết, siêu phàm để nói lên cái lẽ vô thường, diệt sinh, sinh diệt, giữa chốn hồng trần, phù vân ảo ảnh. Sự đến, sự đi, cái còn, cái mất như mộng, như huyễn, phù hư chẳng thật, để từ đó thấy lẽ đạo uyên thâm, sự thị hiện, hóa thân của chư Tổ Đức là huyền vi, mầu nhiệm bất khả tư nghì. Chúng ta hãy nghe cung bậc siêu nhiên, ý văn thoát tục để xướng cúng chư Tổ mà thấy lòng thanh thản giải thoát.

“Cái văn: Vô thường thị thường, Thế Tôn thượng song lâm diệt độ. Tịch diệt phi diệt, Đạt Ma tằng chích lý Tây quy. Sanh tự hà lai, tử tùng hà khứ ?”

Từng nghe, cái vô thường chính là thường, đức Thế Tôn diệt độ nơi chốn song lâm. Tịch diệt nhưng chẳng phải diệt, Tổ Đạt Ma đã từng quảy dép về Tây, sinh từ đâu lại, chết đi về đâu?

Sự hóa thân của chư vị Tổ đức không lưu hình ảnh, chẳng nệ cố tình, cũng không hữu ý, tự tại như nhiên, như bài thơ của Hương Hải Thiền Sư:

“Nhạn quá trường không

Ảnh trầm hàn thủy

Nhạn vô di tích chi ý

Thủy vô lưu ảnh chi tâm”

Dịch:

“Nhạn liệng giữa không

Bóng chìm dưới nước

Nhạn không để dấu ở lại

Nước chẳng lưu bóng làm chi.”

(Việt Nam Sử Lược - T.T. Mật Thể, tr 181)

Để nói lên tấm lòng thành kính, tán thán giác linh an nhiên tự tại qua bài Cung Bạch:

“Cung duy: Giác linh nhất tánh trạm nhiên, vạn duyên không tịch. Thác ngũ ấm chi hữu, liễu tứ đại chi bổn không. Thuận thế vô thường yểm quy chơn giới. Thâu Đàm hoa ư thử độ. Thục thiện quả ư Kỳ viên. Nguyện bằng nhất lụ chi hương vân. Dụng trở Tam thừa chi giác ngộ. Đốn minh huyễn mộng, đổng hiển chơn nguyên, quyết sinh tửgiai không, liễu khứ lai nhi tự tại.”

Thành kính, giác linh nhất tánh lặng trong, vạn duyên rỗng suốt. Thọ lấy năm ấm chẳng phải là có, hiểu rõ tứ đại chẳng phải vốn không. Thuận lẽ vô thường không về chơn giới. Hoa Đàm không nở nơi đây. Thiện quả chín mùi tinh xá. Nguyện cho một nén hương thơm, giúp nên Tam thừa đường giác. Liền rõ mộng huyễn, hiểu rộng gốc chơn, sanh tử chắc chắc vốn không, rõ ràng đến đi tự tại.

Hiệp Kỵ chư Lịch Đại Tổ Sư để tưởng niệm công hạnh của chư Tổ, qua một thân một bóng dằng dặc chân mây, chích ảnh cô thân vạn dặm. Công ơn là đó, nhân nghĩa là đó.

Nhất bát thiên gia phạn

Cô thân vạn lý du

Kỳ vị sanh tử sự

Giáo hóa độ xuân thu

Dịch:

Một bát cơm ngàn nhà

Thân đi muôn dặm xa

Chỉ vì việc sinh tử

Giáo hóa chóng ngày qua

Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư để thấy cái hạnh, cái nguyện, cái tu, cái chứng, cái đến, cái đi không lưu vết tích của chư Tổ. Cái mà kẻ phàm tình chưa làm được, để từ đó mà phải học thêm, tu thêm, noi gương Tổ đức, qua bài Kệ:

Thiền thất đăng quang lãnh

Kinh song nguyệt ảnh không

Nhất triêu hề chích lý

Thiên tải mích vô tung

Dịch:

Thiền thất bóng đèn lạnh

Kinh song ánh trăng không

Một sớm mai quảy dép

Nghìn trùng chẳng vết trông

Dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại, đã ghi lại những bậc Kỳ Túc Thiền gia, mà hàng hậu học chúng ta phần lớn đều biết, ấy là Đức Đệ Nhất Tăng Thống Đại Lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, Đức Đệ Nhị Tăng Thống Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, Đức Đệ Tam Tăng Thống Đại Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, Đức Phó Tăng Thống Đại Lão Hòa Thượng Thích Thiện Hòa... cứ đến ngày mồng 5 Tết, các Tòng Lâm, Tự Viện, Tổ Đình của Sơn Môn Huế đều cử hành lễ Hiệp Kỵ để tưởng nhớ những hình bóng thân yêu, quý kính của chúng Tăng, của Đạo pháp, mà một thời công hạnh của quý Ngài đã tỏa sáng nơi chốn rừng Thiền âm u, tĩnh mịch. Từ Tổ Đình Thiền Tôn đến Tường Vân, Linh Mụ... tất cả đều lưu giữ hình bóng quý Ngài như một Pháp bảo trân quý vô giá. Hình ảnh ấy là bài học tinh cần, là ngôn từ sách tấn hằng ngày cho chúng tăng trên tinh thần tu tập, hoằng pháp.

Để ôn lại công hạnh của chư Tổ, Tôn Sư, một thời đã giáo huấn mà cứ mỗi lần Hiệp Kỵ, chư Sơn Thiền Đức đều trùng tuyên lại những lời sách tấn, giáo dục Tăng Ni. Đức Đệ Nhị Tăng Thống Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên dạy:

“Đạo Pháp tồn tại, không chỉ ở những hình thức Chùa Tháp, lễ nghi, Kinh điển. Mặc dù Kinh điển là kim chỉ nam hướng dẫn ta đến đạo quả vô thượng Bồ Đề. Nhưng sự tồn tại đích thực chính là ở sự thể hiện Đạo phong. Những nếp sống gương mẫu của các bậc Tăng già nghiêm trì giới luật và biết tận lực phục vụ Chánh pháp, để Chánh pháp mãi mãi tồn tại với thế gian và làm điều lợi ích chúng sanh...” (Thư Gởi Tăng Ni, nhân mùa An Cư 1976. Kỷ Yếu Tang Lễ. Tr. 13)

Trong bài Minh Khắc nơi tháp của Tổ đã nói lên đức hạnh hoằng hóa một thời lưu danh cho hậu thế noi gương:

“Từ Phiếm Xuân Phong

Bi Triêm Hạ Vũ

Thu Nguyệt Cô Viên

Đông Tùng Độc Tú...”

Dịch:

- “Từ phong là gió xuân về

Bi lòng mưa thắm bốn bề hạ rang

Trăng thu rọi ánh tâm quang

Tùng đông xanh thẳm giữa ngàn tuyết sương...”

“Phi Y Trì Bát

Lợi Phổ Nhân Thiên

Phú Kệ Đàm Kinh

Đạo Thông Tri Tố

Tăng Cang Nhĩ Nhật

Hải Chúng Hàm Y...”

Dịch:

- “Ca sa bình bát ân cần

Lợi người lợi vật thiên nhân cúi đầu

Đàm Kinh thuyết Kệ thâm sâu

Người Tăng kẻ tục đạo mầu cảm thông.

Tăng cang thuở ấy vua phong

Đạo đời thất chúng một lòng quy y...”

Thi sĩ Trụ Vũ đã cảm niệm Tổ bằng những vần thơ chí thành. Sự thành tâm được cô đọng lại như những hạt ngọc xâu thành chuỗi để cảm thành lời thơ:

“Một trăm lẻ hai tuổi

Hơn thế kỷ làm người

Thanh tịnh, thanh tịnh giới

Trang nghiêm, trang nghiêm đời

Thiền định, đại thiền định

Du hý nước mây chơi

Giới, quét sạch tâm kỉnh

Huệ, mở toang mặt trời

Mặt trời huệ minh chiếu

Quạt vàng phất phất vui

Trong cánh quạt chiếu diệu

Mười phương hoa tuyệt vời...

Một ánh đạo đông phương

Thêm một lần vụt tắt

Đại Hòa Thượng Thuyền Tôn

Thiền tịnh Ba La Mật.

Tuy tướng mạo thoảng mất

Thể đạo vẫn trường tồn

Thường trụ giữa quê hương

Đạo tràng Tam Thế Phật.”

(10 tháng Giêng Kỳ Mùi - Phật tử Trụ Vũ - Kỷ Yếu Tang Lễ, Tr. 41-42)

Giờ đây đang mùa An Cư Kiết Hạ, chúng Tăng các Tự Viện hầu hết đều An Cư để trưởng dưỡng đạo tâm, trang nghiêm giới đức, cũng như thể hiện tình thương nuôi lớn muôn loài. Đây chính là đức tánh Từ Bi được ban bố cho đến tất cả.

Trong Chánh điện vang rền tiếng chuông trống Bát Nhã thỉnh Phật thượng đường, thỉnh chư đại Tăng bước vào cửa Ba La Mật để triển khai đàn tràng pháp hội. Tiếng chuông mõ, hòa âm cùng tiếng niệm Nam Mô A Di Đà Phật của đại chúng đều đặn, nhịp nhàng, âm ba thanh thoát, làm lắng đọng bao lớp bụi trần đã phủ mờ tâm thức từ bao vạn kiếp. Tôn tượng Đức Thế Tôn ngự tọa trên đài sen, đang mỉm miệng cười từ ái, hiền hòa. Ánh mắt Từ Bi của Ngài đang nhìn xuống chúng sanh như xoa dịu bao nỗi đau thương, trong cảnh đời nhiều nỗi mưa sa bão táp, mà vỗ vềan ủi cho lòng được lắng đọng thanh lương. Chúng con xin chắp tay, cúi đầu, cám ơn Phật đến vô lượng hằng hà sa. Lời kinh chấm dứt, chuông mõ kết thúc, tang linh dừng lại, không gian trầm mặc, yên lặng, hòa tan vào vô lượng cảnh giới Phật tâm.

Nguyên Siêu

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1165)
“Xứng tánh làm Phật sự” là một câu trong bài nguyện hương mở đầu cho bất kỳ thời tụng kinh nào.
(Xem: 1365)
Sinh tử phiền não của mỗi người, đều phải dựa vào công năng tu hành của chính bản thân để đạt được giải thoát;
(Xem: 1442)
Một khi thân tâm ta thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ tùy thuộc thanh tịnh.
(Xem: 1468)
Trong cuộc sống, dù khôn khéo hay thánh thiện đến mấy thì không một ai có thể tránh khỏi bị miệng lưỡi người đời chê trách,
(Xem: 1374)
Rất khó tìm hạnh phúcthế gian này. Thật vậy, khi nhìn quanh, ta không thấy gì ngoài đau khổ, phiền muộnhỗn loạn.
(Xem: 1321)
An cưcấm túc ở một chỗ, hạn chế tuyệt đối sự đi lại và nỗ lực tu học trong ba tháng mùa mưa, gọi là kiết hạ.
(Xem: 1128)
Trung Luận của Bồ tát Long Thọ phá trừ mọi bám chấp thuộc về kiến (cái thấy, quan niệm) của con người để hiển bày tánh Không.
(Xem: 1237)
Giáo pháp của Đức Phật nhằm hướng dẫn, giúp chúng sinh đối trị, vượt qua phiền não của chính mình để chuyển hóa thân tâm
(Xem: 1225)
Giới lớn nhất là giới bình đẳng. Phải thấy tâm bình đẳng. Phải giữ tâm bình đẳng.
(Xem: 1309)
Trong tâm lý học, cảm tính là một nội hàm bao gồm những cảm xúc bên trong con người, là một quá trình
(Xem: 1336)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 1404)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn và quan trọng hơn nữa là ...
(Xem: 1266)
Thân thể đau nhức mỏi nhừ, từng đốt xương rã rời như rụng rơi, những sợi cơ dường đã xơ cứng vô dụng,
(Xem: 1370)
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau.
(Xem: 1280)
Khi tâm thanh tịnh, người ta sẽ thấy thế giới thanh tịnh. Kinh Duy Ma Cật, phẩm Phật quốc thứ nhất, Đức Phật nói với trưởng giả Bảo Tích:
(Xem: 1238)
Cái ta trong đạo Phật gọi là ngã, trong triết học gọi là bản ngã, còn cái của ta gọi là ngã sở, tức là những sở hữu của cái ta.
(Xem: 1311)
rong hệ thống triết học và lề lối suy nghĩ của Tây Phương thì thế giới này có thật, sơn hà đại địa, con người và cái Tôi hay cái Ngã
(Xem: 1242)
Lần giở từng trang kinh Trung bộ - một trong 5 bộ kinh thuộc Kinh tạng Pāli, người đọc có thể dõi theo những bước chân của Đức Phật
(Xem: 1419)
Trong kiếp sống nhân sinh đầy gió bụi này, ai cũng mang trên người một chữ NGHIỆP.
(Xem: 1673)
Thế gian này đang quá nhiều bi thương, bởi con người còn đầy dẫy tham sân si, sống ích kỷ, đố kỵ, chỉ biết lo thâu tóm cho riêng mình,
(Xem: 1364)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1662)
“Phật Pháp cao siêu rất nhiệm mầu Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Nay con nghe thấy chuyên trì tụng Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu”
(Xem: 1263)
Đôi khi những điều hữu ích nhất mà chúng ta học được không đến từ những người thầy mà từ những người như chúng ta, chỉ đang cố gắng để làm tốt nhất có thể với cuộc sống này.
(Xem: 1178)
Việt Nam cũng như cộng đồng Phật giáo Việt Nam hải ngoại, Phật giáo bắc truyền chiếm đa số, phần lớn tu sĩcư sĩ đều tu học theo truyền thống bắc tông.
(Xem: 1394)
Phật pháp lớn như biển, tin là con người có khả năng, nghi là khả năng chướng ngại.
(Xem: 1256)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1320)
Trong câu chuyện hằng ngày, thỉnh thoảng chúng tôi có nghe một vài thiền sinh nhắc đến cụm từ “Vạn pháp tùy duyên”,
(Xem: 1466)
Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là ...
(Xem: 1704)
Nhiều người hôm nay đang mạnh khỏe, rồi bỗng dưng ngã bệnh và chết ngay hôm sau.
(Xem: 1714)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất.
(Xem: 1519)
Vô sanh là một từ được nói trong kinh điển cả hệ Pali và hệ Sanskrit, và trong mọi tông phái, để chỉ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 1714)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình.
(Xem: 1399)
Trong cuộc sống thì sự vật hiện tượng luôn thay đổi không ngừng, trong sự biến chuyển vô thường không cố định thì bất cứ hiện tượng sự vật...
(Xem: 1365)
Đức Phật dạy chúng ta phát triển giá trị nội tại bằng cách thiền quán về thiện ý, nhưng bạn phải có ý định thực hiện điều đó thì mới thực sự có kết quả
(Xem: 1883)
Mục tiêu của Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka, Gandavyuha) là giúp ta có được cuộc sống an nhiên, tự tại, hạnh phúc ngay ở đây và bây giờ…
(Xem: 1465)
Có hai loại Bồ Đề Tâm: Bồ Đề Tâm Nguyện và Bồ Đề Tâm Hạnh.
(Xem: 1413)
Một thời đức Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikaṁba. Lúc ấy, thôn trưởng Asibandhakaputta đến gặp Đức Thế Tôn;
(Xem: 1369)
Quá nửa đời người rong ruổi giữa dòng đời, một ngày kia y soi kiếng chợt nhận thấy...
(Xem: 1342)
Khi giác hạnh đã viên mãn thì thọ mệnh Đức Phật tuổi đã bát tuần (80).
(Xem: 1437)
Giới luật là nền tảng căn bản của đạo giải thoát. Người tu nếu không tuân giữ đúng theo giới luật mà Phật đã răn cấm, thì ...
(Xem: 1290)
Thông thường, người thực hành đạo Phật tìm cách tránh thoát cái vô thường, cái sanh diệt để chứng nhập cái không vô thường, cái không sanh không diệt.
(Xem: 1546)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(Xem: 1535)
Con người thường có quan điểm: “mạng sống, sự sống của con ngườivô giá, là giá trị nhất so với sự sống của muôn ngàn loài khác”
(Xem: 1398)
Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai.
(Xem: 1401)
Tham luận “The Way to World Peace via an Integrated Kantian and Buddhist Perspective” được tác già trình bày tại Diễn Đàn Phật Giáo
(Xem: 1291)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
(Xem: 1687)
Bản Ngã Càng Lớn, Sĩ Diện Càng Nhiều, Càng Dễ Bị Tổn Thương.
(Xem: 1443)
Thân mạng chúng tachúng ta không biết yêu thương thì làm sao chúng ta có đủ yêu thương để gửi đến người khác.
(Xem: 1243)
Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant