Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bước qua chênh vênh

15 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 14162)
Bước qua chênh vênh

Chênh vênh là trạng thái mà ta cảm thấy bất an, không vững vàng, dễ té nhào hoặc xiu đổ. Nếu chẳng may khi ấy, ta gặp phải một cơn gió lốc nữa thì có khi sẽ ngã rẹp xuống, không thể gắng gượng lại được nữa; hoặc nếu có gắng gượng thì cũng mất một thời gian khá dài…

Vì sao ta chênh vênh?

Trong cuộc đời mỗi người, ai cũng có lúc trải qua trạng huống chênh vênh, thấy mình không vững chãi trước mọi thứ. Đó là điều đương nhiên bởi ai chẳng có lúc yếu lòng, có lúc thiếu sáng suốt nếu không muốn nói tới phần đông người thường yếu đuốimờ mịt trong suy nghĩ nên không thấy được vấn đề, đôi khi rất đỗi bình thường nhưng lại làm quá lên, tự tạo những nỗi khổ đau, mệt mỏi cho mình.

buocquachenhvenh-01

Có những lúc chông chênh... - Ảnh minh họa tinternet

Thực tế là, có những sự việc thực sự kinh hoàng, đáng suy nghĩ và là nguyên nhân chi phối chúng ta rất nhiều. Đó có thể là những bất ổn bên ngoài thuộc về hoàn cảnh sống nói chung hay gọi chi tiết là môi trường chính trị-xã hội-kinh tế tác động tới thân-tâm con người. Và, đó cũng có thể là những “bất ổn” bên trong thuộc về tâm-sinh lý của mỗi người như tình cảm, bệnh tật hay những khiếm khuyết nào đó mà mình xem đó là bí mật của riêng mình, là “phần kín” khó giãi bày mà mình cố công gìn giữ…

Ta sinh ra ở một thời đại hay trong một vùng quốc gia, thủy thổ, thiết chế xã hội, chính trị… có nhiều bất ổn làm cho ta cảm thấy thiếu niềm tin hay bị bó hẹp suy nghĩ. Cụ thể, có những người sinh ra giữa một xã hội người áp bức người, ở đó quyền lực thống trị thuộc về số ít và số đông cam chịu làm nô lệ cả về thân xác lẫn tinh thần, giống như một cái máy.

Khi ấy, nếu ta là thực thể có mặt trong điều kiện ấy ta cũng thấy chênh vênh, luôn sống trong sợ hãi vì chẳng biết lúc nào mình sẽ trở thành nạn nhân của trò áp bức. Sống trong thời chiến, nhiều người kể lại những năm tháng nơm nớp ấy chính là những nỗi ám ảnh quá khứ khó lòng nguôi ngoai. Sự chênh vênh về cuộc sống bấp bênh, đầy khó khăn của một giai đoạn kinh tế khủng hoảng cũng làm mình sợ hãi, vì có thể mình sẽ rơi vào hoàn cảnh nghèo khó, thất nghiệp, thiếu thốn đến đói khát…

Suy cho cùng, những điều kiện sống bất ổn, không thỏa mãn mong muốn được tự do, bình an, đầy đủ… của con người chính là nguyên nhân làm cho chất lượng sống (về tinh thần) không cao. Những nỗi sợ hãi, lo lắngbất an này đến từ yếu tố vật chất như sự nghèo túng, thiếu thốn, mất tự do thân thể… được triết học hiện đại gọi là “vật chất quyết định ý thức”.

Bên cạnh đó, còn có những vấn đề tình cảm hay những “nỗi đau tinh thần” thuộc về một người đến từ những khiếm khuyết tâm-sinh lý mà họ luôn xem đó là “nỗi buồn riêng tư”, không thể bày biện, hoặc nếu có nói thì cũng không ai hiểu. Sự “đeo bám” của tâm lý nặng nề từ nhận định về bản thân yếu kém có thể nói theo ta như hình với bóng, và hình như ai cũng bị sự “ám muội” này, bởi không có ai là hoàn hảo một cách tuyệt đối. Sanh ra làm người, có người được đầy đủ sáu căn như cũng có nhiều người sáu căn không đủ đầy. Và họ, đôi khi (hay nhiều khi?) vẫn thấy mất tự tin và đôi khi tự ti, tủi thân vì chính cách đối xử giữa người với người.

Một cụm từ “người bình thường” so với “người không bình thường” (tự hiểu) của những ai khuyết tật đủ để họ đau đáu suy nghĩ về thân phận của mình. Hay, có một thời người ta gọi người khuyết tật là “tàn phế” để rồi sau đó nhiều người khuyết tật đã lên tiếng “chúng tôi tàn nhưng không phế” để minh chứng cho suy nghĩ sáng suốt còn đó thì dẫu đôi tay, đôi chân thiếu vắng hay thậm chí nằm một chỗ thì cũng không phải là “phế nhân”.

Với tư duy đó, không ít người khuyết tật đã phát huy thế mạnh của mình ở những bộ phận còn lành lặn, hoặc sống vui, sống lạc quan, yêu đời để hiến tặng một bài pháp về con đường ở ngay dưới chân mỗi người, quan trọng là ta có chịu đi hay không. Thế nên, thi thoảng gặp được những con người khiếm khuyết một phần thân thể hay trong biểu hiện giới tính có phần chuệch choạc so với hiểu biết về giới của cộng đồng mà họ vẫn sống hữu dũng trước những ánh nhìn kỳ thị, quan ngại và còn góp nhặt yêu thương, cống hiến những giá trị cao đẹp (từ vật chất tới tinh thần) mà những-người-bình-thường khác không làm hay không làm được - báo chí luôn ngợi ca như một điển hình, một tấm gương đáng học hỏi, đáng làm mô phạm cho cuộc đời…

Buồn ơi, chào em!

Có một thi kệ thực tập mà một thiền sư đã đề xuất, được nhiều người yêu mến, trân trọng ghi lại như một cẩm nang trên bước đường vượt thoát khổ đau, kiến tạo an vui, hạnh phúc cho mình, đó là: “Thức dậy miệng mỉm cười/ Hai bốn giờ tinh khôi/ Xin nguyện sống trọn vẹn/ Mắt thương nhìn cuộc đời”.

Sự thực tập này mang tính dừng lại, quán sâu để từ đó gội rửa tâm hồn mình từ chỗ mịt mù tăm tối, từ chỗ nhìn đâu cũng thấy đen thui, đáng chán thành chỗ có một con đường để đi, chỉ cần mình biết thương yêu, biết trân quý bản thân cũng như những gì đang có. Hành động mỉm cười mỗi sớm mai thức dậy là một sự thực tập mang tên chế tác an vui.

Cười thật an, thật tươi (như hoa nở) để chào đón giây phút hiện tại ta còn sống là một quán niệm mang ý nghĩa tôn trọngbiết ơn sự sống tự thân của mình và cũng là hành động nhận diện sự thật “thân người khó được mà ta đang được thân người đây, đó là hạnh phúc đâu dễ dầu gì có được”. Nên, hãy hạnh phúc đi!

buocquachenhvenh-02

Hạnh phúc ở trong ta, quanh ta, hãy nhận diện và chạm tay vào - Ảnh minh họa từ internet

Đó, còn là, trong cõi người này, còn bao người nghèo cùng, túng bấn gấp nhiều lần ta; hay còn bao nhiêu người đang phải vật lộn với mưu sinh, chiến đấu với bệnh tật nan y trong cuộc chiến sinh tồn… Ta cứ nghĩ dài và nghĩ rộng ra, bao quát cả một xã hội mà ta đang sống đến toàn thế giới rồi đến những cõi khác, nhất là ba cõi trong tam đồ ác đạo (địa ngục, ngã quỷ, súc sanh). Những cõi mù mù tăm tăm ấy, nhất là địa ngục, sống chết muôn lần, đau khổ liên miên không dứt kia đáng thương và đáng tội nghiệp hơn ta bội phần, ta khổ chừng này có đáng gì đâu?

Cứ thế mà quán để mà “thương nhìn cuộc đời”, để mà biết ơn giấy phút ta sống dậy sau một thời gian thùy miên để cảm nhận hạnh phúc mà mình đang có. Đó cũng là một cách để giã từ những tri giác sai lầm rằng ta đang bất hạnh, ta đang khổ đau và tiếp tục đẩy mình đi sâu, đi xa vào mê lộ của u tối, khổ đau triền miên, dẫu mình chẳng phải là người khổ nhất.

Buồn ơi, chào em! Đây cũng là một sự thực tập, một thiền ngữ để nhắc ta nhẹ nhàng đối mặt với những buồn thương chất ngất đang phủ trùm trong tâm trí ta. Thiền ngữ nhắc ta nhận diện mình đang buồn, đang chênh vênh có nghĩa là nhắc về sự có mặt của tâm hành ấy trong ta. Nếu ta nhận diệnbình tĩnh chào nó bằng một ái ngữ dễ thương (chào em) sẽ ngăn ta căng cứng lên, chống đối hoặc loại bỏ nó như cái cách mà y học hiện đại thường dùng là phẫu thuật cắt bỏ.

“Phẫu thuật” những nỗi buồn đau, chênh vênh trong tâm thức khác với cách cắt bỏ của y học hiện đại. Theo đó, ta phải thực tập chậm rãi, bình tĩnh, tự tin bằng sự quán niệm về nó. Nhưng muốn nhìn thấu triệt nó để cắt gọt tận gốc rễ thì ta phải chầm chậm lại, dừng lại thì mới có đủ năng lượng để mà quán chiếu. Khi ta cứ chạy điên cuồng và tâm ta lúc nào cũng muốn mình không khổ đau, phải hạnh phúc liền liền dù trước đó và thậm chí hiện tại mình đã tạo ra khổ đau ngút ngàn cho đời, cho người, cho mình bằng những ý nghĩ sai trái, lời nói đầy độc tố, hành động thiếu từ bi… thì ta càng mong muốn (càng tham) thì càng đớn đau, vật vã mà thôi.

Vì vậyĐức Phật chọn một trong những pháp môn căn bản để dạy môn đệ của mình dứt trừ khổ đau, kiến tạo hạnh phúc chính là thiền định. Nhưng, muốn thiền định thì trước tiên và trên hết là phải gìn giữ những nguyên tắc đạo đức (giới luật) thì mới giúp cho thân tâm định và khi ấy trí mới sáng ra để thấy đường đi, đi vững chãi, không còn chênh vênh. Trong Phật giáo gọi đó là “tam vô lậu học” (Giới-Định-Tuệ), con đường đi từ tối ra sáng, giải thoát khổ đau, cập bến bờ an vui mà bất kỳ hành giả nào cũng phải thực tập thì mới nếm được pháp vị của nó.

Thế gian hay nhắc những người nôn nóng, sầu khổ, vụt chạc trong cuộc sống, ứng xử với mình, với người bằng câu: “Cứ từ từ, chuyện đâu còn có đó”. Đối với người con Phật, nhìn sâu vào câu này cũng thấy đó là một công án thiền phải chiêm nghiệm để thực tập.

Cứ từ từ là thiền chỉ (dừng lại), chuyện đâu còn có đó (nhìn sâu - thiền quán, để thấy là sự sự vật vật, hiện tượng biểu hiện trong mình, quanh mình vốn theo định luật nhân-duyên-quả, cái gì đến lúc tới thì nó phải tới, ta có sợ bỏ chạy thì nó vẫn theo ta liền tức thì, vì đó là nghiệp, theo ta như hình với bóng thì chạy đâu cho thoát). Cái quan trọng vẫn là cách ta đón nhận những điều đã và sẽ xảy ra bằng sự hiểu biết, thương yêu. Hiểu rằng nhân quả công bằng, rất rõ ràng, ta đang khổ đau hay hạnh phúc, bình an đều là kết quả mà ta đã gây. Ta khiếm khuyết hay lành lặn, môi trường ta sống bình an hay nhiều độc tố… đều là kết quả mà ta từng tác tạo nhân trước đó…

Bên cạnh nhận diện sự thật ấy để đón nhận bằng tâm từ ái (buồn ơi, chào em) ta còn bắt đầu gieo tạo những hạt giống lành, trùng tu lại những nham nhở, khiếm khuyết trong ta, quanh ta, từng chút một và kiến thiết một cảnh giới an lành từ chính cách ta nghĩ, từ miệng ta nói, thân ta làm (tam nghiệp). Nói gọn là đoạn ác, làm lành, trong đó cái ác đầu tiên phải đoạn chính ta thôi trách móc, thôi những giằng xé đớn đau mà ta đã từng làm, từng cảm nhận bằng sự chênh vênh của mình từ ngày này sang ngày khác, năm này sang năm nọ, kiếp này qua kiếp khác trước đó.

Ờ, đoạn ác, là đoạn những suy nghĩ ấu trĩ, lời nói bạo động, gieo rắc đau thương, phiền muộn, và tuyệt đối không làm những điều tổn hại mình, tổn hại người ở hiện tại cùng tương lai muôn kiếp… Nguyện vậy, tin vậy, hành vậy thì ta sẽ nhẹ nhàng bước qua những chênh vênh, nông nỗi. Nhanh thôi!

Chúc Thiệu
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1069)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1253)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 981)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1314)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 770)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 739)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 791)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 809)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 788)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 776)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 928)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 815)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 973)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 981)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 913)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 916)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 842)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 997)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 941)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 886)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 976)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 891)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 837)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 942)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 871)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1133)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 899)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 996)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1129)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1598)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1150)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1232)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1100)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 959)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 906)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 946)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 789)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1470)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1348)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1318)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1256)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1361)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1315)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1459)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1338)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1193)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1243)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1309)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1291)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant