Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hoài Khanh sầu xanh vườn cô liêu

25 Tháng Hai 201300:00(Xem: 15324)
Hoài Khanh sầu xanh vườn cô liêu

hoaikhanh-01

Miền biển xanh cát trắng mênh mang Phan Thiết, không biết có duyên nghiệp gì với Hoài Khanh mà vào năm 1934, thi sĩ sinh ra nơi vùng trùng khơi lộng gió đó, khiến cho suốt một đời cứ mãi mông mênh sầu như gió sóng lênh đênh. Bên bến bờ xưa bữa nọ, có những chiều hiu hắt, chàng tuổi trẻ chạy theo chụp bắt những sợi nắng vàng vọt rơi xuống vỡ tan trong bọt trào vỗ sóng mong manh mà chợt cảm ngộ lẽ vô thường của đời sống, để rồi bật lên thành tiếng thơ sầu vạn cổ.
Vào năm 1959, nhà thơ Bùi Giáng đã có những nhận xét độc đáo về Hoài Khanh qua thi phẩm Dâng rừng, tập thơ đầu tay của thi sĩ :
“Chỉ yêu là một nụ cười
Chỉ đau lòng lệ của người mà thôi
Ai lên mà hỏi được trời
Vì sao nhân thế hay cười lại đau
Qua sông là một nhịp cầu
Qua tôi là một kiếp sầu vô chung
Anh chưa quá 20 tuổi, anh viết những vần thơ mà Nguyễn Du, Nguyễn Khắc Hiếu tái sinh nghe được phải lạnh mình trước cái vĩ đại hồn nhiên lẫm liệt của tài hoa chưa ráo máu đầu. Cái vẻ ngây thơ thăm thẳm của lời thơ, chỉ những thiên tài xuất chúng mới có được.”*
Tập thơ Dâng rừng xuất bản năm 1957 lúc Hoài Khanh mới 23 tuổi, rồi tiếp tục sau đó là các thi phẩm Thân phận (1962) Lục bát (1968) Gió bấc trẻ nhỏ đóa hồng và dế (1970) Hương sắc mong manh (2006) và những tập sắp ấn hành Phương trời lưu viễn, Quê hương giữa đỉnh cao và hố thẳm.
Trước 1975, Hoài Khanh ở Sài Gòn, làm thơ, dịch Krishnamurti, Hermann Hesse trông coi nhà xuất bản Ca Dao, thường giao du với Nhất Hạnh, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ… Sau 1975 thì quy ẩn chốn miền Biên Hòa, nơi vườn Cô Liêu hiu quạnh màu sầu mộng.


hoaikhanh-tamnhien

Nhà thơ Hoài Khanh & tác giả, hình chụp vào dịp Quý Tỵ 2013


Không biết khởi sự tự bao giờ và do đâu, ngay từ thuở còn thanh xuân mới vào đời thì thi nhân đã rơi xuống nguồn mạch sầu bi thiết, trôi dạt bập bềnh như một cánh lục bình, lưu linh lạc địa qua hàng ngàn bến sông đời rồi mà vẫn còn trên những nhịp sầu cô đơn rờn lạnh ngậm ngùi. Nghe những tiếng lòng tơ tưởng chợt tan vỡ thanh âm trầm lặng dưới dòng nước chảy trôi mau :
Nước xuôi lạnh một dòng sầu
Biết về đâu hỡi mấy màu thời gian
Ta nghe lòng vỡ cung đàn
Hồn âm thanh rợn chiều hoang lá cành
Gió từng trận thổi đi nhanh
Rơi đôi chiếc lá và ngành trơ vơ
Sông xanh trầm biếc xa mờ
Một hình ảnh cũ ngày thơ ấu còn
Lạnh rồi tự buổi xanh non
Búp măng tơ ấy đã tròn gió sương
Con sông nào đã xa nguồn
Thì con sông đó sẽ buồn với tôi
Ơi chao ! Trào tuôn một nỗi u buồn ngút ngàn phiêu linh lãng đãng, chập chùng sương khói hoang vu phủ xuống những nhịp cầu sông xa quạnh quẽ, chập chờn trăng nước vàng thu mờ lau lách xạc xào, áo não gió mưa bay :
Bến sông này bến sông này
Trăng xưa phủ xuống hàng cây gục đầu
Người xưa chừ biết là đâu
Này trăng gió cũ này câu giã từ
Lối đi vàng nhạt mùa thu
Nghe lau lách động niềm u uất buồn
Mắt người mang cả quê hương
Lòng ta mang cả đoạn trường tháng năm
Trầm ca chi mà đứt ruột đau ngầm. Thâm u ám phủ phù sa trong rã rời xa vắng, dằng dặc một mối sầu vạn đại không biết tâm sự cùng ai. Còn chi ý nghĩa nữa đâu, khi mọi sự đều đóng băng cũ mốc, khô khan nhạt nhẽo. Thôi thì chỉ ngắm trăng nhìn gió, ngó nước chảy mây bay mà khơi vơi bày tỏ cùng nàng thơ não nùng thùy mị rất mực gần gũi mà xa xôi :
Cũ rồi câu chuyện chia phôi
Nước sông xanh đó vẫn trôi lặng lờ
Suốt đời tôi chỉ làm thơ
Buồn không thể nói bây giờ than van
Làm thơ suốt đời như một nghiệp mệnh mênh mang, hát khúc bi ca trong nỗi tuyệt vọng vong tình. Hình ảnh dòng sông xưa, con đò cũ vẫn thường xuyên xuất hiện trên những dòng thơ bãng lãng hoàng hôn tựa như tranh thủy mặc lặng lẽ u buồn :
Chiều em qua một bến đò heo hút
Áo còn bay rờn lạnh cuối sông dài
Ngày còn lạnh như lòng chưa đủ ấm
Ta vẫy chào nghe rợn cả tàn phai
Sông thì vẫn âm thầm trôi chảy mãi
Em có nghe lòng thoáng chút âm thầm ?
Đời thì rộng biết còn chăng gặp nữa
Qua bến đò là qua cả ngàn năm
Con sông đó hãy muôn đời chứng giám
Nỗi buồn kia ai biết tự nơi nào ?
Thì em cứ đi về phương hướng định
Như cuối trời thoáng rụng một vì sao
“Nỗi buồn kia ai biết tự nơi nào ?” Thi sĩ nêu lên câu hỏi như thế mà không cần phải giải đáp gì hết cả, vì làm sao nói được, trước biết bao thảm họa hoành sinh đang trút xuống những cuộc tương tàn tương sát, kinh hoàng tàn bạo của nhân loại, cứ mãi còn gây ra chém giết, chiến tranh, chiến đấu tiêu diệt lẫn nhau, những oan khiên nghiệt ngã, đọa đày cay đắng trong rợn rùng khủng bố, tàn phá và hủy diệt sự sống không ngừng :
Với ngày tháng ở sau lưng
Yêu em lòng thấy vô cùng đớn đau
Xung quanh còn có gì đâu
Nghe ầm tiếng súng đời sâu dưới mồ
Súng mìn bom đạn tan tành nổ đùng khủng khiếp, kéo dài suốt mấy chục năm trời trầm thống tang thương, trên khắp mọi miền quê hương xứ sở xơ xác nghẹn ngào, thảm não xiết bao :
Quê hương tôi ở chốn nào
Phải chăng Châu Á buồn đau ngút ngàn
Mẹ hiền sớm chít khăn tang
Màu hương khói lạnh đồng hoang chiến trường
Núi cao lạnh suốt trời sương
Sông sâu rờn cõi đoạn trường nhân sinh
Giống như nhà thơ Huy Cận : “Một chiếc linh hồn nhỏ. Mang mang thiên cổ sầu” Hoài Khanh cũng cùng tâm trạng sầu mang mang đó, cho nên cứ vẫn lạc loài qua những nẻo độc hành đơn chiếc lẻ loi, bước lệch gót lữ dặm dài lao đao lảo đảo :
Phố khuya vọng bước tan tành
Ta đi lòng biết chẳng đành riêng tư
Lâu rồi vẫn một phù du
Ta cười giữa những ngục tù áo cơm
Tù ngục nào giam nhốt, vây khổn trong phù du ảo mộng, trong cuồng si, túy sinh mộng tử triền miên ? Khiến cho Thúy Kiều phải chịu đọa đày suốt mười lăm năm trời trầm luân khổ ải ? Phải chăng, đó là cái nghiệp mệnh của Thúy Kiều cũng như của muôn kiếp phù sinh bèo bọt lưu linh giữa mộng dời hư huyễn bể dâu ?
Mộng đời nát ngọc chìm châu
Bến mê vẫn rợn mấy màu trầm luân
Mười lăm năm bấy nhiêu lần
Bấy nhiêu rồi nhỉ hỡi trần gian kia ?
Ngược xuôi bao kẻ đi về
Tấm thân bé mọn bên lề tồn vong
Chuyện đời có có không không
Phù vân một áng bụi hồng xa xa
Có hay không, mộng hay thực… hỡi tồn sinh bức bách, để cho nhà thơ Hoài Khanh phải chạnh lòng thâm cảm trong niềm trắc ẩn khôn nguôi mà thốt lên một câu hỏi sững sờ cùng tuyệt thiết tha :
Cớ sao thiên hạ người ta
Vẫn chưa tròn một Quê Nhà Bao Dung ?
Vẫn chưa tỉnh giấc hãi hùng
Trong cơn trường mộng vô cùng thời gian ?
Giữa đêm dài sinh tử mù mịt vô minh, cứ mãi lềnh bềnh trên dòng sông nghiệp chướng, vương mang thân phận lạc nẻo xa nguồn. Biết đâu là bờ bến, khi dòng đời cứ vẫn vô tình trôi mông lung một cách lạnh lùng trong cô đơn cóng buốt :
Cuộc đời cứ lạnh lùng qua
Cuộc tình người cứ dần dà xuôi trôi
Một đêm ngửa mặt trông trời
Hoang lương cõi lạ giọng người bỗng đau
Đau khổ xao xuyến, đau đớn quằn quại, trải qua suốt muôn chiều hoang mang xuôi ngược giữa biển trần ai bão loạn, đắm chìm trôi nổi trong mịt mù u tối vô tri :
Tôi trong cõi đó còn gì ?
Cây khô đá núi đất ghì giọt sương
Ngàn năm cát bụi vô thường
Sông kia bãi nọ đoạn trường riêng sao ?
Về trong cõi diệt sắc màu
Cây khô bình tịnh bóng nào âm dương
Hỏi cho có hỏi thế thôi, chứ thi nhân cũng thừa biết rồi, chính nền cơ khí kỹ thuật thời hiện đại, được điều động bởi tham sân si đã làm băng hoại, tan hoang hết những giá trị tinh thần, tinh thể, những mộng đời xanh biếc, dặt dìu trăng gió yêu thương. Chính cái gọi là văn minh tiến bộ, vô hồn máy móc đã tiêu diệt, giết hại hàng triệu triệu người. Còn chi đâu, ngoài nỗi điêu tàn phai úa, xiêu đổ rơi rụng hết trơn rồi :
Vào đời một trái tim côi
Bao phen rách nát giọng cười hỗn mang
Ai đâu một tấm lòng vàng
Hai mươi thế kỷ điêu tàn rồi chăng ?
Người ta đang thoát căn phần
Văn minh cơ khí giết dần thương yêu
Tương lai vào một buổi chiều
Đời người rồi cũng xế chiều chao ôi !
Sự nhạy cảm của thi sĩ báo hiệu, tiên đoán một ngày mai tiêu điều như thế. Buổi hoàng hôn nhân loại cũng sắp phủ trùm xuống mặt đất cằn khô này rồi. Làm sao mà tránh khỏi não nề, tê tái ? Làm sao mà không đau nhói một nỗi hoài vọng dư vang ngày tháng cũ dưới gót chân lữ thứ phong trần và lắng nghe trong ưu phiền biển lệ máu sông mộng mị từng cơn gió rời rã phai nhòa :
Đã mòn một cánh chim bay
Hồn thanh niên bỗng đêm ngày ngẩn ngơ
Và tôi hột cát xa mờ
Một đêm nào bỗng tình cờ sương tan
Đi sông bến lạnh lên ngàn
Khóc thời xa cũ đã tàn thanh âm
Ngùi nghe trái đất thì thầm
Nhỏ dòng máu lệ kiếp trầm luân sâu
Sầu khúc rung ngân rờn rợn màu máu lệ, xót xa cho kiếp người cứ mãi luân hồi trong vòng trầm kha khổ đế. Mối sầu khốc liệt miên trường, ứa lệ cảm thương của Hoài Khanh gợi nhớ đến nhà thơ Trần Tử Ngang thuở nào thấp thoáng hiện về heo hút cuối nẻo mù xa :
Ai người trước đã qua
Ai người sau chưa tới
Nghĩ trời đất vô cùng
Một mình tưôn giọt lệ
Giọt lệ thi nhân nhỏ xuống nấm mồ nhân thế, có ý nghĩa gì trong cuộc phù sinh, khi mà giữa trời đất thiên nhiên, mây vẫn trôi nước vẫn chảy giữa hai bờ cách biệt nhớ thương. ? Ơi thương nhớ mênh mông trong sóng vỗ xa mù, khiến cho nước mắt lặng buồn rưng rưng những giọt sầu :
Quay về soi bóng dòng sâu
Nước kia cứ chảy về đâu biết gì ?
Bỗng nhiên lệ ướt vào mi
Sông đêm nào đó vẫn đi buồn buồn
Nước trôi nước có về nguồn
Và đôi bờ bến có thường nhớ nhau ?
Chiều nay chẳng hiểu vì đâu
Hai dòng nước mắt chìm sâu mặn nồng
Bồng bềnh một hình một bóng rong rêu lạc nẻo về. Vì sao như thế ? Vì sao cứ mãi cô đơn rờn lạnh trong nỗi buồn man dại tái tê, mặc dù thi nhân vẫn chan chứa vô lường thương yêu người em huyền mộng ? Yêu trong nỗi sầu riêng biệt miên man :
Tôi hoài trên bước lang thang
Yêu em vô lượng mà man dại buồn
Tóc huyền đó lạnh như sương
Mắt huyền đó mộng bình thường không em ?
Mỗi đêm gió nhớ trăng tìm
Bãi sông triều dậy đi niềm chia phôi
Lòng anh chiếc bóng bên trời
Ôi con sông đó dài trôi lặng lờ
Tình anh cũng chỉ bơ vơ
Một dòng sông nhỏ mịt mờ bóng sương
Sương khói tỏa mù vây phủ u buồn, sầu thảm đạm khôn nguôi. Sầu ngậm ngùi rưng rức, rưng rưng nhức nhối nỗi quạnh vắng đìu hiu giữa cảnh xế chiều vàng vọt của Đông phương loang rờn trên mặt đất trần trụi đuối mộng trầm mê. Về đâu đây khi tiếng hát lời ca đã tắt lịm trong lòng và cũng hết rồi những vấn vương thương nhớ ngỡ ngàng. Buổi xế tà của nhân loại quái ác đang bũa xuống âm u tím ngắt, nắng vàng tàn tạ quá đỗi lạnh se, le lói rạc rời, hỡi em, hỡi vạn hồn chiều phiêu hốt giữa hoang vắng tàn xiêu :
Nhưng thôi buồn đã ra nhiều
Trong ta là vạn hồn chiều rưng rưng
Trong ta là núi là rừng
Là trăm tiếng hát đã dừng trên môi
Tiễn đưa thì tiễn đưa rồi
Nhớ thương thì nhớ thương rồi người ơi !
Thương thương nhớ nhớ miên man những hồng nhan thục nữ, những thuyền quyên đến rồi đi trong lặng lẽ không nói một lời, những người em gái một thời ghé qua vườn hồn cô liêu hiu quạnh giữa khơi vơi :
Người em gái trở về đây một bận
Con đường câm bỗng sáng ánh diệu kỳ
Tôi lẫn trốn vì biết mình không thể
Mây của trời rồi gió sẽ bay đi
Em thì vẫn nụ cười xanh mắt biếc
Màu cô đơn trên suối tóc la đà
Còn gì nữa với mây trời đang trắng
Đã vô tình trôi mãi bến sông xa
Thôi nước mắt đã ghi đời trên đá
cô đơn đã ghi dấu trên tay
Chân ta bước trên lối về hoang vắng
Còn chăng em nghĩa sống ngực căng đầy
Quá khứ đó dòng sông em sẽ ngủ
Giấc chiêm bao nguyên vẹn có bao giờ
Ta sẽ gặp trong ý tình vũ bão
Con thuyền hồn trở lại bến hoang sơ
Rồi em lại ra đi như đã đến
Dòng sông kia cứ vẫn chảy xa mù
Ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng
Nghe giữa hồn cây cỏ mọc hoang vu
Em đến rồi đi biền biệt miên trường, khiến cho thi sĩ tương tư mối tình thiên cổ nghìn thu nào mà da diết ngậm ngùi xiết kể, không thể nguôi ngoai ? Bàn tay thi nhân nhỏ quá làm sao bảo vệ canh gác, nắm giữ được mùa hương sắc thanh xuân ? Đành bất lực đứng nhìn hương sắc mong manh cứ dần dần phôi pha rã rụng xuống nghẹn ngào, đổ gãy tiêu điều những tàn tạ phai úa nát nhầu :
Ai nghìn xưa ai nghìn sau
Tháng năm vàng xuống bờ lau tội tình
Thương làm sao nổi thân mình
Mà thương cho cả thế tình cũng đau
Bàn tay nhỏ quá đi rồi
Trái tim cũng lạnh cả trời mê hoang
Đem theo trăng nhớ rưng ngàn
đem theo cả điệu đàn quạnh hiu
Lang thang trong vạn hồn chiều
Nghe mùa gãy đổ dưới nhiều bến sông
Lời thơ nghe quằn quại khắc khoải, nhức nhối một nỗi gì thấm thía chia phôi, nỗi sầu chết lặng bàng hoàng như thế, tưởng chừng như nặng trĩu nhiêu khê, không cách gì thoát ra được, nhưng mà cũng may mắn thay, vẫn còn người em thi ca và bằng hữu đó đây là có thể làm cho thi nhân khuây khỏa ít nhiều, trên những dặm dài nghi ngút khói bụi thì thào cô lữ long đong :
Bóng mây bọt nước qua cầu
Nửa đời thôi đã nát nhầu suy tư
Bây chừ thành phố mùa thu
Lá khô những lối hiền từ than van
Nhìn mây với nước xuôi tràn
Bước đi nghe vọng từng hàng tịch liêu
Thôi còn an ủi tình yêu
Bạn bè dăm đứa hắt hiu cuối trời
hy hữu làm sao, tân kỳ hơn nữa, nhất là vẫn còn thơ, một hồn thơ, một trời thơ bát ngát thiên thanh vĩnh thúy, bao trùm lên trên thiên địa vạn cổ sầu. Hồn thơ huyền diệu đó đã đi về cứu độ, mở ra một phương trời cao rộng thênh thang cho thi sĩ. Nói đến thơ là nhớ đến Phạm Công Thiện, một người bạn thâm tình thân thiết với Hoài Khanh, đã có lần phát biểu về thơ : “Thơ không nói về bất cứ cái gì cả, như vậy mới là tất cả. Thơ chỉ là thơ và thơ tự nói về thơ từ trong thơ đến trong thơ : Cả cao và thấp, cả trong và ngoài, ở trên và dưới mặt đất, tất cả chỉ là thơ.”**
Thơ và thơ mộng như mùa xuân 1962, Hoài Khanh bỏ Biên Hòa lên Đà Lạt ăn tết với Phạm Công Thiện. Thời gian đó, Phạm Công Thiện đang dạy học tiếng Anh, sống nghệ sĩ phiêu bồng trên phố núi mù sương ấy. Mấy ngày sau chia tay, thi sĩ làm bài thơ Xin chào Đà Lạt, mang mang sương khói bồng bềnh :
Em ở đó với bầu trời mây núi
Mùa đông sương rờn trên má hoa đào
Linh hồn ta mấy mươi mùa của suối
Lạnh vô cùng không biết tự phương nao
Chân ta bước trên con đường trở lại
Một lần xưa vi vút gió đầu cành
Sâu dưới đó lối mòn khe suối vắng
Bóng của mùa khẽ động tiếng lanh canh
Ôi đồi thông những chiều nghiêng nhớ nắng
Lòng ta trôi chiều cũ dưới chân đèo
Gió heo hút dường nghe niềm u hận
Em đi rồi ta vẫn đứng nhìn theo
Màu áo đó phất phơ màu vĩnh biệt
Bay về đâu xin còn lại linh hồn
Để ta giữ những chiều sương ám phủ
Của một đời luân lạc kiếp tha hương
Rồi thôi hết đất sẽ là vĩnh viễn
Bông hoa kia nở trên xứ điêu tàn
Tay yếu đuối ta sẽ còn nắm lại
Những lời gì xưa đã hết âm vang
Điêu tàn sụp đổ chôn vùi hết mọi hoa mộng một thời qua bao cuộc dâu bể đoạn trường, mịt mù hỗn độn, rời rã tan hoang… Rồi bẵng đi một thời gian dài mười mấy năm sau, thi sĩ đi về thăm lại phố núi cao nguyên với bao niềm ký ức trong nỗi u hoài :
Đà Lạt hỡi những lần ta trở lại
Thông vẫn xanh in bóng núi sương mù
Mây vẫn trắng dưới mặt hồ thao thiết
Lửa trong hồn có sáng cõi thâm u ?
Có phải đó là mộng đời bất tuyệt
Nói cho ta ý nghĩa cuộc sinh tồn
Vì những đóa hoa nào thời trẻ dại
Hơn một lần phai nhạt sắc và hương…
Có phải đó là mộng đời phiêu hốt
Nói cùng ta qua đôi mắt mơ buồn
Khi em hiểu sương tan trên đầu núi
Là chuyện đời xiêu đổ dưới màn sương
Hoa vẫn nở bên nỗi đời xuôi ngược
Ta vẫn đi trở lại chốn qua rồi
Nhưng tìm mãi không thấy hồn muôn cũ
Không thấy gì chỉ thấy có mây trôi
“Không thấy gì chỉ thấy có mây trôi” Ơi chao ! Còn chi đâu mà thấy nữa, ngoài những cơn gió hư vô thổi qua sa mạc khô khốc, rỗng tuếnh trong lòng người thời hiện đại. Giọng thơ khắc khoải, thổn thức, u uẩn nhưng tiềm ần thần hồn một ngọn lửa thiêng tịch mịch. Chính nhờ vào thần lực của thi ca mà Hoài Khanh vụt đứng dậy một cách vững vàng chứ không té ngã xuống vũng bùn lầy u tối u sầu :
Một lần thương một lần đau
Vần thơ tuyệt diễm mắt nào không cay
Nước ơi sông vẫn còn đây
Hồn ơi thơ vẫn lên đầy không trung
Cũng nhờ hồn thơ mênh mông, lồng lộng đó mà người thi sĩ cô đơn khốc liệt đã vượt qua được biết bao gian nan, thử thách não nề, để bước đi lên rừng xuống biển đến tận chỗ sơn cùng lộ tuyệt thì đùng một cái, chợt hoát nhiên trực ngộ ra một điều quá giản dị đơn sơ mà hoằng đại thâm trầm :
Tâm thường trụ cõi thái hư
Trái tim máu chuyển dường như tội tình
Ngàn năm ôi chuyện tử sinh
Thoảng như một chú cá kình vẫy đuôi
Sáng trưng rực rỡ mặt trời
Vòng quay chung cuộc là rồi tối tăm
Ngàn năm ôi chuyện ngàn năm
Chỉ duy có một cái tâm mới là
Thế là trên cuộc lữ lang thang vạn lý sầu, bước đi của thi nhân đã chuyển sang một cung bậc trầm hùng, rung ngân bất tận. Ngân rung giữa trùng trùng duyên khởi với trời mây, bụi đất rồi cuối cùng nhẹ nhàng về lặng im thư thả :
Niềm im lặng của thiên nga
Là niềm im lặng của ta lạc loài
Niềm im lặng của mây trời
Là niềm đốn ngộ của loài thi nhân
Thiền sư thì ngộ đạo Tâm bất khả tư nghì, còn thi sĩ thì ngộ đạo Thơ cũng ly kỳ gay cấn, không thể nghĩ bàn. Kể từ vô lượng kiếp đến nay đã từng trải qua ba chìm bảy nổi biết bao nhiêu chuyện nặng nề tham lam, sân hận, si mê, đắm đuối hồng nhan trĩu đầy nghiệp chướng đến quên cả đường về. Rồi một hôm bất thần vẳng nghe lời Đức Phật giảng Kim Cang trong ánh bình minh tịch lặng :
Tham sân như cát sông Hằng
Đắm mê bóng sắc quên thân phận mình
Một hôm sực nhớ câu kinh
“Phải không chỗ trụ mà sanh tâm mình”
Ý thơ lấy từ câu kinh Kim Cang “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Chỉ nên phát tâm trên tinh thần vô sở trụ. Không nên dựa vào âm thanh, sắc tướng, hương vị mà phát tâm, chỉ nên phát tâm vô trụ. Vô sở trụ là không nương tựa vào bất cứ cái gì, còn phát tâm là nguyện vọng, mong ước đạt tới sự giác ngộ cao cả nhất. Đừng để tâm mình dính mắc, ràng buộc vào bất cứ việc chi. Chỉ một câu đó thôi mà chú tiều Huệ Năng trở thành Lục Tổ Huệ Năng và Hoài Khanh cũng thầm nghe ra những gì vi diệu trong tận đáy lòng sâu thẳm rạt rào :
Ô hay cũng vẫn vườn xưa
Mà sao khác lạ như vừa tái sinh
Kiếp xưa nay có nguyên hình
Mà câu kinh cũ thình lình vọng âm
“Ưng vô sở trụ… kỳ tâm”
Mới hay vô trụ ngàn năm vẫn là
Vô sở trụ, vô sở cầu, vô sở đắc là những thanh âm sấm sét dữ dội từ Kim Cang vang rền như một cung bậc thượng thừa, có thần lực bảo hộ cho thi nhân tăng thêm năng lực vô úy, uy hùng đối mặt với mọi thứ ma vương quỷ sứ, đứng sừng sững vững vàng vững chãi, không hề nao núng, sợ hãi hay dao động chi cả :
Những điều quỷ nói với ma
Là trong tính thể nghe ra chết chìm
Những điều bướm nói với chim
Là trong tính thể đậm niềm yêu thương
Những điều gió nói với sương
Là trong tính thể cội nguồn mênh mông
Những điều biển nói với sông
Là tâm ơi hãy bao dung độ trì
Dù đời có lạc đường đi
Tâm ta mà vững thì chi sá nào ?
Kinh Hoa Nghiêm tuyên bố : “Tất cả do tâm tạo” cũng như lời dặn dò của cha mẹ nhắn nhủ lại với con cái thân yêu, trước khi về trong cõi gió mây :
Bây giờ cha mẹ về đâu
Dường như trong gió vẳng câu thì thầm :
Ngàn năm hay vạn triệu năm
Người ta dẫu mất nhưng tâm vẫn còn
Chao ơi ! Chỉ cần thông suốt thấu hiểu một chữ tâm này thôi là thấu đạt liễu ngộ đạo Thiền. Thiền sư Huệ Năng nói : “Không phải gió động hay phướn động mà là tâm ông động.” Như vậy chứng tỏ, mọi sự đều do từ tâm mình thấy, tâm mình nghe, tâm mình tạo ra cả đấy thôi. Trời xanh mây trắng lồng lộng phong quang rạng rỡ ánh đạo nhiệm mầu bừng chiếu khắp nhân gian trổ ngát hương diệu tâm thâm thúy rực ngời :
Người về với ánh nhiệm mầu
Mấy ngàn năm đã qua cầu tử sinh
Đạo vàng ôi sắc hiển linh
Muôn đời vẫn vọng câu kinh độ trì
Muôn đời ánh đạo Từ bi
Sẽ xua quỷ dữ sân si bạo tàn
Sẽ đem trả lại nhân gian
Cuộc sinh tồn ngát hoa vàng từ tâm
Hoa vàng ngan ngát phất phơ bờ cỏ dại, nhà thơ thoải mái thở phào nhẹ nhõm mỉm cười giữa vườn Cô Liêu của mình và thưởng thức những vệt nắng lấp lánh xanh vàng bên hiên chiều long lanh óng ả :
Thưa rằng trong cõi người ta
Tiến lên cũng có lúc sa xuống bùn
Xin đừng vọng tưởng xa phương
Trong ta hằng hữu cội nguồn Chân như
Chân như, Chân tâm, Chân lý là lẽ thật muôn đời của vũ trụ nhân sinh, là thực tại hiện tiền, là sự tự do tự tại, luôn luôn có mặt hằng hữu trong ta. Chỉ cần ứng dụng được là mặc sức hý lộng phiêu bồng theo thể thái vô ngại thảnh thơi :
Tự do là nắng của trời
Là mây của gió là lời của yêu
Tự do là sớm của chiều
Là xương của máu là triều của sông
Tự do là cá hóa long
Là tâm vô úy giữa lòng phù sinh
Tự do là mộng của thơ
Là tình yêu buổi ban sơ đẹp hoài
Tự do tuyệt lắm người ơi
Mà loài độc ác muôn đời biết đâu
Tự do là sắc muôn màu
Trên đôi cánh hạc khởi đầu thiên di
Bài ca tự do vút bay trên cánh hạc vàng, tung lượn lướt qua ngàn sông biển núi một cách thanh thản an nhiên với một nụ cười tươi tắn trầm lặng :
Niềm vui lớn cũng thường hằng
Mà niềm vui nhỏ cũng ngần ấy thôi
Nếu em nhan sắc tuyệt vời
Thì ta cũng có một đời riêng tây
Mỗi người trong chúng ta, ai ai cũng có riêng tây một đời như vậy. Thế thì mỗi người cứ mãnh liệt hết mình sống trọn vẹn với cái nghiệp của mình, trong vũ trụ riêng mình đi. Rồi từ đó tự chuyển hóa, hòa chan vào cái vũ trụ càn khôn chung thiên hạ. Lúc đó sẽ cùng thi nhân tấu khúc cung cầm tâm cảm hòa âm :
Sá gì câu chuyện ngàn năm
Nếu trong khoảnh khắc ta hằng buông lơi
Sá gì mấy nẻo mù khơi
Chẳng qua là một trò chơi khôn lường
Xin em bước lại trên đường
Bàn chân sẽ hiểu ngọn nguồn luân lưu
Luân lưu trôi chảy giữa trời thơ đất mộng, chúng ta hãy lắng nghe Tuệ Sỹ, một người bạn vong niên với thi sĩ, nói vài lời về thơ Hoài Khanh :
“Tóc em nửa đóa sao cài
Đã long lanh nỗi lạc loài sương vây…
Và tôi hột cát xa mờ
Một đêm nào bỗng tình cờ sương tan
Hai câu thơ đẹp kinh hồn. Làm sao ta có thể tĩnh lặng, âm thầm lắng đọng để nhìn thấy giọt sương lấp lánh trên tóc ai ? Giọt sương soi bóng ngôi sao nào đó lẻ loi heo hút giữa một trời sương lạnh buốt kinh người. Đấy thôi, tàn cuộc nhân sinh. Một trời sương bãng lãng. Một vì sao cô độc, lấp lánh và long lanh như khóe mắt vương nỗi sầu thiên cổ, nỗi sầu trường mộng nhân sinh. Rồi anh bước đi và tôi cũng bước đi, từ giã nơi này, vô định như hột cát xa mờ, để mà :
Ngùi nghe trái đất thì thầm
Nhỏ dòng máu lệ kiếp trầm luân sâu.”***

Chú thích:
* Bùi Giáng. Giảng luận về Chu Mạnh Trinh. Tân Việt xuất bản. Sài Gòn 1959
** Phạm Công Thiện. Một đêm siêu hình với Hàn Mặc Tử. Hoa Kỳ 2009
*** Tuệ Sỹ. Lời tựa tập thơ Lục bát tái bản năm 2009 của Hoài Khanh
Thơ Hoài Khanh trích trong các thi phẩm :
Thân phận. Nhà xuất bản Ca Dao. Sài Gòn 1962
Lục bát. Nhà xuất bản Phương Đông. Tai bản lần thứ 3, Sài Gòn 2009
Hương sắc mong manh. Thư Ấn Quán xuất bản. Hoa Kỳ 2006
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 590)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 771)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1098)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1267)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 995)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1337)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 756)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 804)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 820)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 793)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 822)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 980)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 995)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 922)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 847)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1003)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 985)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 895)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 841)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 949)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1005)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1143)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1606)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1154)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1249)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1104)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 967)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 951)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 793)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1474)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1351)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1263)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1367)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1322)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1468)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1345)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1198)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1256)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant