Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Có Duyên Với Phật

05 Tháng Tư 201300:00(Xem: 15568)
Có Duyên Với Phật

Có Duyên Với Phật

 

Trần thị Nhật Hưng

co_duyen_voi_phatTừ chùa Từ Đàm, tôi trở lại khóa học, nơi tổ chức khóa tu Âu Châu của mười ngày qua. Sân trường giờ vắng hoe. Thảm cỏ xanh dẫn ra con đường lớn, không còn một bóng người. Vài băng ghế nằm rải rác trên sân cỏ cũng đìu hiu như nhớ, như chờ ai. Bên trong trường học lưa thưa sót lại một số người đang dọn dẹp và một số đang đợi chuyến bay cho ngày hôm sau khi khóa học bế giảng. Hằng ngàn người, mới đó mà... biến mất. Biến như một cơn gió thoảng qua.

Tôi lẩn thẩn trở về phòng, ngang hội trường sân khấu, ghé mắt nhìn vào, rồi không hiểu sao, có cái gì đó như giữ chân tôi lại dẫn vào bên trong. Tôi theo tam cấp bước lên sân khấu, chơ vơ đưa mắt nhìn xung quanh. Quang cảnh đìu hiu, vắng vẻ, âm u tương phản với tối hôm qua; cũng nơi này, đèn xanh, đỏ, tím, vàng đua nhau chuyển đổi, nhộn nhịp bao tiếng hát tiếng cười, và hàng hàng lớp lớp khán giả ngồi đầy nghẹt ghế dưới sân khấu. Thế mà bây giờ, không còn một ai. Tất cả biến đi như một cơn gió thổi. Và cũng nơi này, suốt mười ngày qua, cũng nhộn nhịp bao người qua lại, tiếng nói cười, tiếng chén đũa, tiếng tụng kinh khi dùng Quá Đường - Quá Đườngbữa ăn trưa trong chánh niệm sau khi tụng một thời kinh rồi sau đó đi kinh hành - Nơi đây, ngày ba thời sáng, trưa, chiều, mọi người mộc mạc trong chiếc áo tràng lam, quây quần bên nhau với những bữa cơm chay vô cùng ngon miệng. Ngon tự tấm lòng của mỗi người trao cho nhau, và nhất là khi nghĩ đến công lao của ban trai soạn vì khóa học, vì mọi người mà không tiếc công sức của mình đã cực kỳ vất vả để phục vụ một cách khoa học, nghiêm túc cho 878 người những bữa ăn giờ giấc chính xác đâu ra đó.

Một nỗi buồn nhớ vu vơ xâm chiếm tâm hồn, tôi nhận ra vô thường trong từng sát na... Không có gì vĩnh cữu tồn tại, hợp rồi tan, tan rồi hợp, biết vậy, mà lòng tôi vẫn lao xao...

Rời hội trường sân khấu, tôi mon men theo hành lang nhỏ, quanh co một hồi, tôi lạc vào chánh điện. Chánh điện cũng cùng “chung số phận”, tất cả đã tháo gỡ, chỉ còn hiu hắt một chút nắng chiều, soi rõ phòng tập thể dục của nhà trường. Cũng mười ngày trước đây, với bàn tay tài hoa của Thầy Thích Tâm Hiền cùng một số Phật tử địa phương “hóa phép” thành một đạo tràng vô cùng trang nghiêm, tráng lệ. Một Đại Hùng Bửu Điện nguy nga như cung đình; có cỗng tam quan chạm trổ cực kỳ công phu qua những nét điêu khắc tinh vi có mây lơ lửng, rồng bay, phượng múa, những chữ Tàu, những trụ cột...Cứ đứng từ xa nhìn sẽ tưởng thành quách vững vàng, nhưng xin ai đó chớ dựa cột, vì chỉ sơ xẩy một chút cả tòa Bửu Điện sẽ...biến! Vì tất cả chỉ là những miếng mút xốp khéo léo cắt vẽ rồi dán lại với nhau thôi. Ngay ba hình đức Phật thật lớn; hào quang từ những bóng đèn nhỏ chớp nháy, ẩn mình sau rèm cũng cắt bằng mút xốp. Khi khai mạc hoặc bế giảng thì màn linh động mở ra hoặc khép lại như màn sân khấu vậy; cùng lúc với tấm biển ghi hàng chữ chào mừng hay tạm biệt phù hợp với lúc đến hoặc đi từ phía sau như cửa xoắn vòng trên cao hạ xuống. Nét bút “viết” từ màu ngũ sắc của lá cờ Phật giáo cùng lúc với lời giới thiệu giọng trầm ấm của Thầy Pháp Quang và Thầy Tâm Hiền...Tôi run lên vì cảm xúc trước vẻ linh hoạt, sống động, có một cái gì đó linh thiêng nữa trước một kiệt tác.

Nói chung, khi dựng một chánh điện cho khóa học, bao năm trước đây đều do Thầy Nguyên Lộc phụ trách. Những “tác phẩm” của Thầy Nguyên Lộc cũng vô cùng công phu và cũng rất nghệ thuật. Họa sĩ hay văn sĩ cũng thế, mỗi người có cái “e” riêng, sở trường riêng. Do đó, hai Thầy, mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười.

Nhưng dù đứng trước một kiệt tác nào, chính yếu vẫn là tâm thành của người Phật tử dâng lên Phật. Những ai khác cũng như tôi, phải nói là, chúng ta “Có Duyên Với Phật” mới có cơ hội tham dự những khoá tu học Âu Châu để thưởng thức và để sống trong cái cảm giác như là cõi Tịnh Độ ở thế gian này. Trong thâm tâm, tôi luôn tri ân Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu mà người đầu tiên nghĩ và thành lập Đạo Tràng này là Hoà Thượng Thích Minh Tâm, viện chủ chùa Khánh Anh Paris; nhưng người tạo duyên cho tôi biết đến khóa học là tờ báo Viên Giác mà chủ nhiệm là Hòa Thượng Phương Trượng Thích Như Điển. Từ đó đưa đẩy, tôi có nhiều nhân duyên với người này người khác, với việc này điều kia để rồi có cái ân tình với khắp cả mọi loài chúng sinh.

Khoá học là sự hội tụ của bao tấm lòng và công sức của nhiều người góp lại mà thành. Kiên trì vượt mọi khó khăn gian lao mà có. Và nhờ khóa học, Phật tử Âu Châu biết đến đạo, hiểu giáo lý, biết lễ lạy tụng kinh, nhiều người thuộc kinh rau ráu thật đáng phục. Riêng tôi biết mặc...áo tràng mà ngày đầu tiên khoác áo, tôi “mắc cỡ” đến độ muốn độn thổ, tưởng cả thế giới đang nhìn rồi...cười mình. Bây giờ thì tôi quen rồi!

Hơn hai mươi năm về trước, tôi chưa có duyên với Phật. Ăn chay một bữa là bủn rủn tay chân, bạn bè rủ tôi đi chùa, tôi trả lời thẳng thừng: “Đi chợ, tôi đi. Đi chùa thì không”. Thế mà sau đó, qua nhân duyên văn nghệ, văn chương, tôi biết đến chùa, để rồi bây giờ, tôi thích không khí đạo vị, “ghiền” khoá tu học Âu Châu, ở đó có cái gì đó thu hút tôi, có lẽ là cái tình đời nghĩa đạo, mọi người trao cho nhau để tìm thấy sự an lạc mà có lần tôi từng ví von “Thiên Đường Hạ Giới” (tựa đề một bài viết mà có lần tôi giới thiệu đến quí vị), ở đó không chỉ ăn chay mười ngày mà về nhà có lúc tôi phát tâm ăn chay cả tháng cũng được nữa cơ, tôi còn mon men học nấu chay nữa; và nhất là đến chùa, đến khóa học, nhờ học hỏi từ các buổi thuyết pháp, nghe băng giảng tại nhà, tôi thấy được sự linh diệu trong giáo lý Phật Đà, an ủi dỗ dành kẻ trầm luân vơi đi những nỗi khổ niềm đau của trần thế; rồi tôi tiếc cho những ai tuy mang danh con nhà Phật, theo đạo Phật nhưng chưa “Có Duyên Với Phật”.

Nhiều chị bạn đợi tới khóa 24 mới tham dự lần đầu, hỏi tại sao bây giờ mới đi, mới biết, đều cũng trả lời rằng: “Đến bây giờ mới CÓ DUYÊN VỚI PHẬT!”.

Vâng, đúng vậy, nhân duyên đến từ nhiều cách, dù sớm hay muộn vẫn là nhân duyên đều vẫn tốt, nhưng đến sớm vẫn tốt hơn!

Rời chánh điện, sẵn lớp 2 gần đó, tôi bước vào và đặt mình ngồi xuống một chiếc ghế trống. Tôi bâng quơ nhìn không gian vắng lặng, tự nhiên thấy lòng dấy lên một chút ngậm ngùi. Nơi đây cũng chẳng còn ai. Nhưng dư âm của mười ngày qua vẫn vang vọng như hiện ra trước mắt. Từng buổi, từng ngày...quí Thầy thay phiên nhau giảng dạy. Không kể các lớp 1a, 1b dành cho giới trẻ và những Phật tử tham dự lần đầu, hoặc lớp 3 dành cho giới xuất gia; lớp 2 của tôi, có hơn 250 học viên vẫn đều đặn đến lớp ngày ba thời sáng, trưa, tối như những “sinh viên” vào giảng đường. Năm nay chúng tôi được học kỹ về Bồ Tát giới, về những giới luật, những hạnh dành cho giới Bồ Tát.

Từ nhiều năm qua, giới Bồ Tát chỉ dành cho những ai thọ Bồ Tát giới, nhưng đặc biệt năm nay, đề tài được đào sâu, mở rộng để mọi người cùng học. Có học có hiểu mới phát tâm dũng mãnh để thọ. Và con số thọ năm nay đã “vượt chỉ tiêu” gần 100 người, trong khi năm ngoái mọi người phải rủ rê mỏi cả miệng, đợi mòn con mắt mới đạt đủ tiêu chuẩn tối thiểu 30 người quí Thầy mới làm lễ truyền giới cho.

Vậy, Bồ Tát Giới là gì?

Trên con đường giác ngộgiải thoát, người Phật tử tại gia trước tiên phải có Tín - Hạnh - Nguyện và tinh thần độ tha. Tự phát tâm nghiêm trì 6 giới trọng: (Cấm): sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lỗi của người, nấu rượu và bán rượu và 28 giới khinh (nhẹ) dành cho giới Bồ Tát.

Người thọ Bồ Tát giới cần phải hiểu thêm là đời đời kiếp kiếp mang hạnh nguyện cứu độ chúng sanh, dù có chết đi vẫn không mất giới. Chỉ mất giới khi để phiền não trói buộc rồi sinh tâm phạm lục giới. Hoặc không tin Phật nữa và không phát bồ đề tâm nữa. Ngoài ra còn có “Tam Tụ Tịnh Giới” buộc người thọ giới nên quan tâm:

Nhiếp luật ghi giới: Ghi lại hết các giới để nghiêm trì, tránh làm điều ác.

Nhiếp thiện pháp giới: Điều kiện người thọ giới phải phụng hạnh lành.

Nhiêu ích hữu tình giới: Làm lợi ích tất cả các loài hữu tình.

Muốn thọ giới có hai cách:

Tự thệ thọ: Phát tâm bốn niềm tin bất hoại: Tam Bảochánh pháp.

Tùng sư thọ: Do thầy hướng dẫn mà thọ. Được duyệt qua ba vị: Đàn đầu (lãnh tụ), Yết ma (vị xét theo luật rồi quyết định), Giáo thọ (người chỉ vẽ). Ngoài ba vị còn có thất chứng, tức 7 vị làm chứng, đôi khi chỉ cần 5 vị là đủ.

Tại khóa học, người thọ giới, trước ba ngôi Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) còn có sự chứng minh của đông đảo Phật tử nên người lãnh giới phát tâm dõng mãnh thệ nguyện giữ giới.

Đề tài thọ giới Bồ Tát năm nay được mọi người lao xao bàn tán. Thọ và không thọ. Người hưởng ứng thì cho rằng, tôi cứ thọ rồi giới sẽ giữ tôi trước khi tôi giữ giới. Giới sẽ kìm tôi, cản ngăn tôi phạm giới. Có lý. Còn người phản đối thì cho là phong trào, a dua theo...thời trang, muốn khoát thêm cái khăn nâu cho đẹp cho oai, được ưu tiên mọi thứ, biết có giữ được giới hay không mà theo?! Ì xèo lời bàn tán...! Theo tôi, mỗi người mỗi quan niệm, tu theo cách nào hợp với mình thì thôi. Đức Phật đã từng dạy, tùy căn cơ trình độ của mỗi người mà “Tu” cách nào cũng được. Vấn đề là đừng gây đau khổ cho mình, cho người; trái lại đem an lạc cho tất cả mọi loài chúng sanh là tốt. Có người, sau khi thọ, chỉ ăn xong rồi ngủ thôi. Không làm gì cả. Với tôi, đó cũng là cách “tu”. Ít ra cứ nằm yên, không “quậy” (như tôi) để đem phiền não cho mình cho người là tốt rồi.

Thử tưởng tượng, cả một làng mạc, một thành phố, hay rộng hơn cả nước, tất cả đều thọ Bồ Tát giới, dù tu dưới hình thức nào, giới giữ mình hay mình giữ giới, dù độ tha hay không, nơi đó và đất nước đó cũng đem lại sự an bình hạnh phúc cho mọi người khi xã hội không còn những tệ nạn, gieo tai ương đau khổ cho người khác.

Tôi đứng dậy bước đến bên cửa sổ, nhìn vạt nắng cuối ngày vẫn trải dài trên thảm cỏ xanh. Ngoài kia, cái nắng ngan ngát của giữa mùa hạ với gió hiu hiu, nhất là sau mấy hôm trời trở mưa, trên không trung giăng đầy mây trắng xóa. Không khí ấy mới dễ chịu làm sao! Nắng lung linh mát dịu và trong suốt. Trong như tâm hồn trẻ thơ của những em oanh vũ theo mẹ đến tham dự khóa học; ngoan ngoãn chịu ghép mình nghe các anh, chị trưởng hướng dẫn sinh hoạt, sống trong tình lam yêu thươngngồi yên nghe quí Thầy, Cô giảng đạo.

Hãy nghe các em thủ thỉ:

Hôm nay em đi học.

Chị huynh trưởng hỏi rằng.

Tối hôm qua giấc ngủ
Các em có ngon không?
Chị ơi em khó ngủ
Bởi các cô, các bà
Các dì, các anh, chị
Đêm – nói cười râm ran
Chúng em rất thích học
Bài chị dạy vui ghê
Nhưng mà không thể được
Thần trí em mệt mề
Giờ chúng con xin nhé
Lời nhỏ nhẹ kính mong
Xin mọi người khe khẻ
Cho con tròn giấc nồng
Khi giấc ngủ no đầy
Tâm hồn vui khoan khoái
Sẽ nghe lời chị dạy
Học tinh tấn hăng say
Mai này khi cuối khóa
Phật pháp hăm bốn này

Chúng con sẽ múa hát

Mọi người xem ngất ngây.

(Thi Sĩ vô danh tại khóa học)

Đấy, các em oanh vũ giỏi, ngoan như thế. Đến người lớn cũng phải...thua! Bằng cớ là người lớn, ngoài cái “tội” ham vui “nói cười râm ran” để các em phiền lòng, còn phải “Đóng Cửa Bảo Nhau”, đó là tựa đề một bài thơ của thi sĩ vô danh bí mật nào đó đã khéo léo nhắc nhở bà con Phật tử khi ngồi trong chánh điện giữ ngay hàng thẳng lối sao cho đạo tràng đẹp mắt, trang nghiêm. Bài thơ được gởi đọc trong phần thông báo những việc trong ngày vào dịp thọ trai đường:

Bồ Tát ngồi trước làm gương.
Phía sau Phật Tử biết đường ngồi theo.
Ngay hàng thẳng lối đẹp sao.
Hàng ngang, hàng dọc, hàng nào cũng ngay.
Đẹp thay khóa học lần này.
Đạo tràng nghiêm chỉnh trong ngoài đều xinh.
Bảo nhau cố gắng giữ mình.

Cứ ngồi ngay ngắn Thầy mình khỏi la!

 Để kết thúc bài này, thật là thiếu sót nếu tôi quên, không giới thiệu đến quí vị, chùa Từ Đàm tại Birmingham Anh Quốc mà Thượng Tọa Thích Phước Huệ làm trụ trì và năm nay kiêm trưởng ban tổ chức Khoá Tu Học Phật Pháp Âu Châu kỳ thứ 24.

Thầy Phước Huệ cao lớn, có khuôn mặt tròn, tướng hảo quang minh, trông rất hiền lành, nhưng Phật tử của Thầy “nói nhỏ” với tôi “coi dzậy mà không phải dzậy!” nghĩa là thầy “khó” lắm! Thầy khó thì trò mới nên nhờ vậy mà...

Ngày cuối thay cho thông lệ đi du ngoạn, tất cả đạo tràng được hướng dẫn đến tham dự lễ kỷ niệm 10 năm thăng trầm phát triển của chùa Từ Đàm và lễ Khai Nhãn cúng dường Tôn tượng Quan Thế Âm Bồ Tát.

Sau buổi lễ dưới sự chứng minh của chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật Tử, là chương trình văn nghệ cúng dường do anh em Gia Đình Phật Tử tại địa phương đảm nhiệm. Trong không khí thân tình, thoải mái, khán giả Phật Tử chúng tôi cứ ngồi tại chỗ ngoài sân chùa dưới chiếc dù dã chiến, được cấp phần ăn mang đến tận nơi rồi coi văn nghệ. Nhìn các màn ca, vũ với quần áo lộng lẫy, hình thức đã đẹp mà nội dung cũng hay, đã nói lên khả năng và tấm lòng của các anh chị em. Để khích lệ tinh thần cũng như không cưỡng được lòng ngưỡng mộ âm ỉ trong tôi, tôi đã không ngại ngùng tìm đến vị trưởng ban và nhóm văn nghệ tỏ thật nỗi lòng cùng giải mã nỗi thắc mắc của tôi, các màn đồng ca tôi “nghi” do ca sĩ chuyên nghiệp hát sẵn trong dĩa rồi anh em ra sân khấu nhép miệng thôi. Tôi thật sững sờ với một chút hỗ thẹn, đã phạm tội mạn nghi, vì giọng ca trong buổi văn nghệ “cây nhà lá vườn” đích thực là của chính anh em mà nghe hay như ca sĩ! Buổi lễ được đánh giá thành công và nhìn thầy, trò chùa Từ Đàm (thầy “khó”, trò “ngoan”) khắn khít làm việc, tôi hy vọng tiềm năng phát triển của chùa còn xa thêm nữa.

Nguyện cầu Phật gia hộ ngôi chùa luôn vững mạnh để là nơi nương tựa tinh thần cho những người con Phật lưu lạc xa quê hương. Và nguyện cầu khắp mọi loài chúng sinh đều trọn thành Phật Đạo. Nam Mô A Di Đà Phật.

Trần Thị Nhật Hưng

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 590)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 771)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1098)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1267)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 995)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1337)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 756)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 804)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 820)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 793)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 822)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 980)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 995)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 922)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 847)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1003)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 985)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 895)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 841)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 949)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1005)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1143)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1606)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1154)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1249)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1104)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 967)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 951)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 793)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1474)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1351)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1263)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1367)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1322)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1468)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1345)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1198)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1256)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant