Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Berlin Có Gì Lạ?

02 Tháng Năm 201300:00(Xem: 11317)
Berlin Có Gì Lạ?


Berlin Có Gì Lạ?

 

Từ năm 1977 đến năm 2013, đúng 36 năm tôi đã có mặt tại xứ Đức nầy; nhưng chưa có lần nào tôi có thể ở lại Berlin hơn một tuần như lần nầy với Phái Đoàn Hoằng Pháp tại Âu Châu tại chùa Linh Thứu lâu như lần nầy. Đa phần là những cuối tuần Thọ Bát Quan Trai của Phật Tử hay lễ Vu Lan Báo Hiếu v.v… nhiều nhất cũng chỉ vài ba ngày thôi. Do thời gian có được nhiều ngày như vậy; nên quý Phật Tử đã đưa Phái Đoàn chúng tôi đi nhiều nơi tại Berlin như chưa bao giờ mong đợi đến.

tham_berlin__10_

tham_berlin__70_

Làng quê sông nước

Bình yên

Ngày xưa khi bức tường giữa Đông Tây Đức và Đông Tây Berlin còn đóng chặt, việc di chuyển đến, đi cũng như thăm viếng Thủ Đô nầy chẳng phải đơn thuần. Thế nhưng sau ngày 9 tháng 11 năm 1989 mọi việc đều thay đổi. Đức Phật cũng đã từng dạy trong kinh Đại Bát Niết Bàn, Phẩm Sư Tử Hống rằng: “Tất cả mọi pháp đều thay đổi; nên Nhứt Xiển Đề cũng thay đổi và dẫu cho Nhứt Xiển Đề đi nữa mà có tâm tàm qúy, sám hối cũng như có những thiện hữu tri thức giúp đỡ, nhắc nhỡ, thì Nhứt Xiển Đề ấy sẽ được giải thoát sanh tử”. Nhứt Xiển Đề được gọi là “bất tín”; nghĩa là chẳng hề tin một điều gì cả; nhưng cũng có lúc; nếu đầy đủ nhân duyên, Nhứt Xiển Đề sẽ tin. Điều nầy cũng ứng cơ với bức tường kiên cố Berlin được xây lên vào năm 1961; nhưng đến năm 1989, chỉ gần 30 năm sau, pháp ấy đã thay đổi và ngày nay người Đông Đức đã được sống dưới một chế độ dân chủ pháp trị của Cộng Hòa Liên Bang Đức. Đó là sự thống nhất hai miền Đông Tây của nước Đức trong hòa bình, không hận thù và không một giọt máu hy sinh. Quả thật là “bất khả tư nghì” nên thế giới đã ngưỡng vọng về nước Đức.

tham_berlin__150_

tham_berlin__145_

Bức Tường Bá Linh

Berliner Mauer 1961-1989

Phái Đoàn chúng tôi đã đi thăm cổng thành Brandenberg; nơi xảy ra cuộc bỏ phiếu bằng chân vĩ đại của mấy triệu người dân Đông Đức để đi tìm cho mình hai chữ TỰ DO thật sự, mà chính quyền Đông Đức từ năm 1949 đến năm 1989, sau 40 năm chẳng mang lại cho họ được hạnh phúc căn bản chân thật nào; ngoại trừ những lời hứa hẹn thật nặng ký. Đến Quốc Hội để xem tòa nhà lịch sử. Vì sau thời Hiltler (1945) cho đến năm 1990 chưa được sử dụng. Trong thời gian ấy, Chính quyền Tây Đức dời về Bonn; chính quyền Đông Đức dời về Đông Berlin. Thế mà năm 1990, cả hai bên đã trở lại ngôi nhà lịch sử nầy và bên Đông đã thay đổi màu cờ để sống chung với người anh em của mình ở phía bên Tây. Đây quả thật là một giấc mơ mấy chục năm trôi qua hơn 80 triệu dân Đức mới thực hiện được.

Chúng tôi cũng đã đi thăm Charlie; nơi người Mỹ đóng quân suốt trong những năm chinh chiến ấy để giúp cho Đông và Tây Đức được an bình. Sau đó đi thăm tòa nhà Thái Tử; nơi trưng bày tội ác diệt chủng của Hitler giết dân Do Thái khắp các nước tại Âu Châu. Nhưng sau đó quân đồng minh gồm Mỹ, Anh, Pháp đến giải giới, thả bom Berlin và nơi đây trở thành bình địa; những người của Hitler bây giờ bị hỏi tội lại. Cũng bị treo cổ, xử bắn như thời trước. Quả thật nhân quả rất rõ ràng; nhưng mấy ai quan tâm?

Khi lên nắm quyền rồi đa phần người ta nghĩ rằng mình sẽ được nắm mãi quyền lực ấy; nhưng đâu có ai ngờ rằng: thế giới phải đổi thay. Vì thời gian và thủy triều luôn thay đổi. Đây là một bài học nhân quả trước mắt; thiết nghĩ tất cả chúng ta nên suy gẫm về điều nầy. Quyền luôn luôn đi đôi với Lực; nhưng khi Lực đã hết rồi thì Quyền cũng sẽ không còn nữa. Vì tất cả chỉ là những hiện tượng trong cuộc sống giả danh nầy; không có gì chắc thật cả.

Người Nhật ở Á châu cũng đã một thời hùng cứ từ những năm 1939 đến năm 1945; nhưng sau hai quả bom nguyên tử của người Mỹ thả xuống Hiroshima và Nagasaki vào tháng 8 năm 1945 thì Nhật Hoàng Hirohito cũng phải đầu hàng để cứu dân và cứu nước. Cả thành phố Berlin năm 1945 và hai thành phố bị bom nguyên tử của Nhật đã bị Hoa Kỳ san thành bình địa. Thế nhưng chỉ sau hơn 30 năm cả hai quốc gia thất trận nầy đã vươn lên tầm cao của thế giới, sánh vai với các cường quốc Á Âu. Đúng là: “Chân lý không phải lúc nào cũng luôn ở về phía kẻ mạnh”.

Phái Đoàn của chúng tôi cũng đã đến thăm chùa Phật Giáo tại Frohnau đã có mặt tại thủ đô nầy hơn 100 năm qua, do ông Bác Sĩ Paul Dahlke người Đức hiến cúng từ năm 1910. Ai đến đây cũng ngỡ ngàng cho một hấp lực mạnh mẽ của Phật giáo tại xứ nầy gần cả 200 năm nay và ngày nay khắp nơi trên xứ Đức nầy đâu đâu người ta cũng có thể tìm thấy những tiệm bán thức ăn chay cho người bản xứ. Dĩ nhiên, những người ăn chay không nhất thiết phải là những Phật Tử; nhưng ít ra, họ cũng là những người không muốn sát sanh hại vật, mà giới nầy là giới đầu trong Phật Giáo Đại Thừa.

tham_berlin__1_

 tham_berlin__24_

Chùa Das Buddhistische Haus

Phái ĐoànChư Tăng Chùa Das Buddhistische Haus

Ngoài ra tại Đức ngày hôm nay có ít nhất cũng hơn 700 ngôi chùa và Niệm Phật Đường hay trung tâm Phật Giáo để hướng dẫn tu tập cho người địa phương; trong khi đó Phật Giáo Việt Nam của chúng ta chỉ có 14 ngôi chùa lớn nhỏ tại Đức mà thôi. Những trường Đại Học lớn tại Đức cũng luôn có những phân khoa Thần Học, Tôn Giáo Học hay Phật Học. Quả thật là một phép màu. Chúng tôi cũng đã ghé thăm Trung Tâm Tu Thiền Suối Thương của một người Đức dâng cúng cho Thiền Sư Thích Nhất Hạnh và riêng tại Berlin nầy ít nhất cũng có 57 trung tâm lớn nhỏ như vậy.

tham_berlin__51_

tham_berlin__68_

Trung Tâm Tu Thiền Suối Thương

Nhà hàng chay Samadhi

Từ những năm 1978, 1979 tại Berlin đã có những sinh hoạt Phật sự của người Phật Tử Việt Nam; nhưng mãi đến những năm 1985, 1986 Chi Hội Phật Tử Việt Nam Tị Nạn mới được thành lậpGia Đình Phật Tử Chánh Niệm cũng vậy. Kế đến Niệm Phật Đường Linh Thứu đã thuê mướn tại đường Krefeldstr do Hội Hồng Thập Tự Berlin tài trợ. Sinh họat tại đây một thời gian, chùa đã đựơc chính thức dời về cơ sở tạo mãi để cải gia vi tự tại đường Pinnerbergerweg và cuối cùng vào năm 2005, Ni Sư Thích Nữ Diệu Phước Trụ Trì tại đây đã cùng với quý Phật Tử địa phương tạo mãi đươc một mãnh đất tại đường Heidereuterstr 30 cũng như một hãng cũ để làm chánh điện tạm cũng như nơi cư ngụ của Ni Chúng.

chua_linh_thuu__8_

chua_linh_thuu__37_

Chùa Linh Thứu – Berlin 2013

Bức tường và hành lang chánh điện

Đầu năm 2011, Ni Sư Trụ Trì bắt đầu triển khai dự án xây dựng ngôi chùa Linh Thứu thực thụ trên mãnh đất đã mua và đến ngày 20 tháng 10 năm 2012 vừa qua chính thức làm lễ khánh thành. Kinh phí tổng cộng các dự án nầy lên đến hơn 3.000.000 Euro; nhưng nhờ Phật lực gia hộPhật Tử khắp nơi hộ trì cúng dường; nên cho đến nay chùa chỉ còn nợ của Quý Phật Tử độ 600.000 Euro. Đây là một phước duyên lớn của Phật Giáo Việt Nam tại Thủ Đô của Cộng Hòa Liên Bang Đức, nhằm đóng góp trực cũng như gián tiếp cho sự phát triển của Phật Giáo Việt Nam trên thế giới với hơn 600 ngôi chùa hiện có lớn nhỏ ở khắp các châu lục; những nơi mà có người Phật Tử Việt Nam sinh sống.

chua_linh_thuu__1_

Từ trung tâm Thủ Đô Berlin, Phái Đoàn của chúng tôi đã có dịp đi thăm hồ Wansee cũng như Hoàng Cung Sans Souci (Vô Ưu) có từ thế kỷ thứ 17 tại Postdam. Đây cũng là sự ngỡ ngàng đối với bản thân của riêng tôi. Vì hơn 36 năm ở Đức, hay nói đúng hơn sau năm 1989 đến nay tôi chưa hề có ý niệm đến thăm nơi chốn cổ kính nầy. Đến để thấy người xưa, đầu óc của họ đã vượt khỏi không gianthời gian; khiến cho ai đó nếu có so sánh, dẫu cho bằng cách nào đi chăng nữa, thì cũng không ai có thể tưởng tượng được rằng ngày ấy cách đây gần 300 năm về trước họ đã phải dùng sức người, sức ngựa như thế nào để được thành tựu những công trình vĩ đại như vậy. Chỉ tiếc có một điều là suốt trong thời kỳ người cộng sản Đông Đức cai trị (1949-1989) qua 40 năm phế hưng của lịch sử ấy, họ đã chẳng đoái hoài gì đến công trình lịch sử nầy; nên ngày nay chốn Hoàng Cung Vô Ưu đã xuống cấp một cách thê thảm; khiến ai đến đây cũng phải chạnh lòng. Thế nhưng cũng may là nhờ chính phủ đã biến một phần Hoàng Cung trở thành Đại Học Postdam; nên đã có người lo tân trang lại; đồng thời du khách khắp nơi cũng đã lục tục đến thăm. Có như vậy chốn xưa nầy mới có cơ hội được phục hồi.

tham_berlin__186_

tham_berlin__143_

Nhà ở của vua trong Hoàng Cung Vô Ưu

Hành lang trong Hoàng Cung

tham_berlin__161_

tham_berlin__137_

Những con đường đẹp như tranh

Những dây nho còn sót lại

Chúng tôi lên xe ngựa để đi dạo qua cổ thành xưa. Ngựa đi suốt một tiếng đồng hồ mới hết một vòng tròn độ 3 cây số. Nào là những quạt gió của những ngày xa xưa cũ, cho đến cung điện chính Sans Souci do vua chúa tạo lập. Cái nhìn của các bậc quân vương ngày ấy họ có những cái giống nhau, dầu cho Âu hay Á. Vì lẽ để tạo nên những quyền lực hữu hình đối với quần chúng, không gì khác hơn là kiến tạo những lâu đài nguy nga tráng lệ để thể hiện về việc nầy. Sans Souci là tiếng Pháp; có nghĩa là Cung Diện Không Lo; nhưng nếu dịch sang chữ Hán có lẽ hay hơn nhiều. Đó là Vô Ưu Hoàng Cung.

tham_berlin__107_

tham_berlin__116_

Điện thờ trong Hoàng Cung

Một góc sảnh đường làm trường Đại học

Nơi mà vua chúa, Hoàng hậu, Thái Tử cần làm nơi nghỉ ngơi tịnh dưỡng, cất đi những nổi lo toan của đời thường. Kế đến là những ngôi Giáo Đường cổ kính cũng như nhà thờ Hồi Giáo và nhà nghỉ cho những người lớn tuổi ở ngoại thành. Tại đây cũng có cổng Brandenburger; nhưng nhỏ hơn cổng phân chia giữa Đông Tây Berlin. Ngay cả tòa lâu đài Charlottenhhof cũng đã được xây dựng tại đây, trước cả lâu đài Charlottenburg trước khi vào Berlin quý vị thấy ngày nay. Nào là nhà Gare xe lửa cho Vua đi cũng như những cung điện mới được hoàn thành sau nầy. Đặc biệt có cả nhà uống trà của Vua, nhại theo phong cách của vua chúa Trung Hoa nữa. Nói tóm lại tại Hoàng Cung Vô Ưu nầy có ít nhất là 20 cơ sở để xem và nếu đi bộ chắc cũng hết hơn một ngày mới có thể xem hết được.

Đi đâu, đến đâu và ở đâu, tôi vẫn luôn liên tưởng đến quê hương của mình; mặc dầu nơi ấy tôi sống không nhiều như ở ngoại quốc, chỉ có 23 năm đầu đời. Bây giờ ở cái tuổi 65 nầy; nghĩa là đã hơn 40 năm ở tại ngoại quốc; thế mà quê cũ vẫn luôn hiện về trong tâm tưởng khi có dịp hồi tưởng lại, nhằm so sánh thử tại sao người ta làm được mà quê mình lại không thể. Đôi khi cũng phải tự biện minh để an ủi cho quê nghèo của mình; nhưng lại thấy xấu hổ,vì nghĩ rằng: tại sao người ta làm được, mà mình lại không; dầu cho ở bất cứ địa hạt nào. Câu hỏi được đặt ra; nhưng câu trả lời thật là khó.

Tục ngữ Việt Nam và Trung Hoa có câu: “Quạ chết ba năm, quay đầu về núi”; nhưng không biết là người Việt Nam mình ở ngoại quốc có được như thế chăng? Câu hỏi là: Quay về để làm gì? Vì rằng bao nhiêu người đã quay về để phụng sụ quê hương; nhưng quê hương đã chối từ họ và cái tình quê chân thật ấy há có còn lưu lại chút gì như Hạ Tri Chương ở đời Đường bên Trung Quốc đã thể hiện chăng?

Thiểu thiếu ly gia, lão đại hồi

Hương âm vô cải, mấn mao thôi

Nhi Đồng tương kiến bất tương thức

Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai?

Tạm dịch

Tuổi trẻ xa quê, già trở lại

Giọng quê không đổi, tóc mai thay

Nhi đồng tuy thấy; nhưng chẳng biết

Cười hỏi khách rằng: đến nơi đâu?

Nơi ấy mình được sinh ra, khi già về lại thăm quê thì chẳng còn người cũ. Chỉ thấy bọn trẻ con chơi đùa nơi ấy và chúng thấy mình như là một khách từ xa đến thăm. Thế thôi! Tâm trạng nầy của gần 3.000.000 người Việt Nam trên thế giới ngày nay đang gặp phải. Ở xa quê thì nhớ quê da diết; nhưng khi đã tiếp cận với quê hương rồi thì chẳng biết rằng mình nhớ cái gì? Quả thật đời có nhiều việc lẩn thẩn như vậy. Đây chính là cái nhất thời của một kiếp nhân sinh thôi.

Lần này Phái Đoàn Hoằng Pháp Âu Châu của chúng tôi đã đi qua các nước như: Pháp, Thụy Sĩ, Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan, Đức, Áo, Ý… cả 9 nước như vậy tại Âu Châu nầy mà chẳng có nước nào giống nước nào cả. Đây chính là những nền văn hóa đặc biệt cần phải được bảo tồn. Những gì càng cũ kỹ bao nhiêu, thì lại càng có giá trị văn hóa bấy nhiêu và những gì càng được phát minh mới bao nhiêu thì càng chứng minh cho nền văn minh của khoa học kỹ thuật càng tiến bộ.

Trong tiến trình sanh tử của một kiếp nhân sinh, riêng cá nhân mình: đã đi, đã đến, đã học hỏi được rất nhiều điều. Xin cảm ơn Đạo, cảm ơn Đời đã tặng cho tôi cái may mắn nầy, mà nhiều người trong chúng ta chắc rằng cũng có được nhiều cơ hội như vậy.

 

Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc

Viết xong bài nầy vào lúc 9 giờ 30 phút sáng ngày 2 tháng 5 năm 2013 tại thư phòng chùa Linh Thứu Berlin.

Tất cả hình ảnh: Thích Hạnh Tuệ


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1202)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 930)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1251)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 715)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 685)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 761)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 770)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 753)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 747)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 899)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 781)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 940)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 940)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 869)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 874)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 813)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 961)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 891)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 834)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 921)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 843)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 806)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 901)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 834)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1092)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 866)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 949)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1096)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1568)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1108)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1180)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1055)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 919)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 865)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 909)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 755)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1435)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1311)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1273)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1214)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1329)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1279)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1418)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1294)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1162)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1206)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1262)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1248)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1362)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant