Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Con trâu và chú Tư

16 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 14981)
Con trâu và chú Tư
Xem hình

Chú Tư nhai với trâu, nhai một hồi thấy đúng là mình đang nhai cỏ; chú vừa nhai cỏ vừa ngước mắt nhìn trời xa xăm, đăm chiêu, tư lự như trâu. Một hồi, chú phì cười: "Trâu à, tao thấy có cái gì cứng cứng trên trán, không chừng sừng mày mọc trên trán tao rồi!"

Chú Tư chăn trâu từ hồi tám chín tuổi. Chú thường thả trâu ăn cỏ quanh đồi, lẻn vào chùa học chữ với ông sư. Nhờ thông minh, chú học rất nhanh, chục năm sau đã đọc hết sách trong chùa. Đồng thời, con trâu giúp chú cày bừa thửa ruộng của cha mẹ để lại, bốn mùa vất vả, nhưng mưa thuận gió hòa, cuộc đời của chú mỗi ngày mỗi khấm khá.

Rồi chú lấy vợ, sinh con, vợ chú buôn bán mát tay, đẩy chú vào đường kinh doanh, cứ thế, từ một thửa ruộng chú đã xây lên ba căn nhà, từ nhà cho thuê, chú đã hùn vốn vào khách sạn, từ anh nông dân chú trở thành phú gia. Xóm giềng khen gia đình chú tốt phước, khen vợ chú giỏi.

Thím Tư giỏi thiệt, một tay xây dựng cơ đồ, chỉ có cái hơi dữ, chắc thím tuổi con cọp, chú nghĩ trong bụng. Biết làm sao được, nhân vô thập toàn.

Cuộc đời đang đi lên ngoạn mục như thế, bỗng một hôm chú lên chùa xin sư học ngồi thiền. Chú nói nhỏ với sư: chạy theo đồng tiền cũng giống như đuổi theo cái bóng của mình dưới nắng, mình chạy nhanh nó vẫn nhanh hơn. Chú đã mỏi cẳng hụt hơi với thím Tư rồi, không muốn chạy nữa, càng chạy càng nhớ cái thanh thản ngày xưa, một mình nghêu ngao với trâu giữa cỏ nội hương đồng.

Con trâu vẫn còn đấy, bên cạnh chú, dù chú ở nhà tranh hay nhà ngói. Nhưng cái thanh thản với trâu thì mất biệt: trâu vẫn là trâu, chỉ có chú không còn là chú. Cái đầu của chú giống như kho hàng của thím Tư, bề bộn, ngổn ngang, không còn cả chỗ để chứa một sợi cỏ. Chú nói chú đã đánh mất thiên đường; chú muốn tìm lại thiên đường đã mất.

Chú nói ít, sư hiểu nhiều. Thương chú từ lúc nhỏ, biết chú có căn cơ, sư bằng lòng thấy chú trở lại chùa.

Chú lén vợ lên chùa học ngồi với sư một thời gian. Chỉ ngồi cho đúng, thở vô thở ra, tập trung chú ý vào hơi thở, thế thôi. Khi ngồi được rồi, chú tập ở nhà. Mỗi buổi sáng, nóng ruột chờ vợ đi chợ xong, chú tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo tươm tất, thắp ba cây nhang trên bàn thờ, khóa cửa, ngồi.

Mấy ngày đầu, chú thấp thỏm sợ vợ về nhà nửa chừng, bụng dạ không yên. Sư hỏi, chú thú thật:

- Bạch thầy, hóa ra lúc nhỏ, ngồi trên lưng trâu, mắt nhìn chim bay bướm lượn, vậy mà trí óc lặng yên. Thường ngày cũng vậy, khi nhổ cỏ bón phân, cái đầu đâu có lăng xăng nghĩ bậy nghĩ bạ! Cứ nhè lúc ngồi yên trên gối, thở vô thở ra, là nó nhảy tứ tung, nhảy từ bà vợ ngoài chợ qua con trâu ngoài đồng, từ nồi bún riêu qua trái mít ướt, chẳng đầu đuôi thứ lớp gì cả.

Sư hỏi:

- Nhảy từ bà vợ qua con trâu là sao? Thấy con trâu làm gì?

- Bạch thầy, thấy nó gặm cỏ non trên bờ ruộng, cái đuôi vắt qua vắt lại ra dáng thích chí, thấy con nghé chạy theo, rúc đầu vào bụng mẹ tìm sữa, sữa chảy ra trắng hai bên mép…

Sư khen:

- Bắt đầu như vậy là quá tốt. Ngày mai, chú chỉ để ý vào con trâu mà thôi. Trâu đi, chú đi theo. Trâu chạy, chú lấy dây xỏ mũi, giữ nó lại, huơ roi lên dọa, không để cho nó kéo chú đi theo. Còn thím Tư… Chú đi theo trâu thì thím tan biến.

Ngày sau đó, chờ vợ ra phố, chú tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo tươm tất, thắp ba cây nhang, khóa cửa. Ngẫm nghĩ thế nào, chú ra ngoài chuồng trâu, kéo con trâu ra giữa vườn, đóng một cây cọc thật chắc, cột trâu vào cọc. Xong, chú ngồi xếp bằng giữa cỏ, cách trâu ba bước, lim dim mắt, nhìn trâu, cột tư tưởng vào con trâu như con trâu bị xỏ mũi cột vào cọc.

Con trâu nhìn chú chăm chăm, ngạc nhiên quá, thấy chú sao khác ngày thường, ngồi yên không động đậy, chỉ thở vô thở ra. Nhìn mãi chán, lại thấy bụng căng sữa, nó hục hặc cái đầu, muốn bức sợi dây ra khỏi cọc để về cho nghé bú, nhưng cọc không chịu thua. Nó bước đến cạnh chủ, thèm liếm cái bàn tay tỏ ý thương chủ, nhưng chủ bất động như pho tượng khiến nó sợ. Phía xa vọng lên một tiếng gà gáy lẻ như nhắc con trâu bổn phận lao động; nó ngước mặt nhìn chủ rồi mơ màng nghễnh mỏm hướng về phía tiếng gà.

Chú Tư cột tư tưởng vào con trâu, vào cái đầu nó hục hặc, vào sợi dây căng, vào cái roi tưởng tượng mà chú huơ lên, vào tiếng sột soạt gặm cỏ nơi miệng nó, vào cái nhìn mơ màng của nó về phía xa xăm, vào bước chân của nó tiến đến gần chú…

Bỗng con trâu bị ba bốn con ruồi phá đám, bay vù cắn hông bên phải, bay vù cắn hông bên trái, khiến nó quất đuôi qua bên trái, quất đuôi qua bên phải, quất một cái đánh đốp vào mặt chú Tư. Chú bừng tỉnh. Mặt trời đã lên cao, chú hoảng hồn nghĩ vợ sắp về, tiếc rẻ một công phu nửa chừng bỏ dở.

Hôm sau, chú đến báo cáo thành tích với sư. Sư khen: "Chú tiến bộ nhanh quá!" Rồi sư chỉ: "Ai biểu chú phải ngồi sát con trâu? Lần sau, chú cứ ngồi trong nhà nhìn nó từ xa. Thấy hoa thấy lá, nhưng chú tập chỉ thấy nó mà thôi."

Chú Tư mừng quá. Sáng hôm sau, đợi vợ ra chợ xong xuôi, chú tắm rửa sạch sẽ, thay áo quần tươm tất, thắp ba cây nhang, thả trâu ngoài sân, bước vào hiên. Mùa vừa gặt xong, rơm chất từng bó, rơm tươi, mùi thơm tỏa ra phưng phức. Chú chọn một bó rơm làm đệm, ngồi ngay ngắn, thoải mái, thở vô thở ra.

Con trâu đi qua đi lại ngoài sân, buồn chân, buồn miệng, kiếm vài sợi cỏ để nhai, nhưng sân đất, cỏ không một cọng. Hồi lâu, nó đánh bạo bước vào hiên. Mùi thơm của rơm tươi bốc lên ngát mũi, con trâu cầm lòng không đậu, lè lưỡi rút vài cọng nơi bó rơm chủ nó ngồi, rồi vài cọng nữa, miệng nó ngọt xớt, mũi nó phập phồng. Thấy chủ ngồi yên không phản kháng, nó thừa thắng xông lên, xơi hết một góc đệm rơm, rồi nửa đệm, rồi gần trọn đệm, đến khi chủ nó mất gối, té nhào xuống đất.

Như lần trước, chú Tư bất mãncông phu vẫn nửa đường lơ lửng. Chú tường trình với sư: chú hoàn toàn chỉ thấy trâu, theo dõi con trâu, thấy rõ ý tưởng của nó, ước muốn của nó, nghe được nước miếng nó chảy trong miệng khi ngửi mùi rơm, cái bụng nó căng lên cùng lúc với cái đệm rơm xẹp xuống. Chú no với cái bụng của con trâu, quên bẵng cái đệm, bỗng bất ngờ ngã lăn!

Sư lại khen: "Chú Tư có căn cơ từ kiếp trước nên chú tâm rất giỏi, rất sâu. Chút xíu nữa là chú đạt đến mức "định" rồi đó! Ngày mai, chú đừng nhìn trâu trước mặt nữa, chỉ tập trung tư tưởng trên hình ảnh của nó mà thôi."

Chú Tư phấn khởi lắm. Hôm sau, chờ vợ đi chợ, chú tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo tươm tất, thắp ba cây nhang, nhốt trâu trong chuồng, vào nhà, khóa cửa. Ngay chiều hôm đó, chú hý hửng lên chùa, tường trình sự việc với sư:

- Bạch thầy, con tìm được thiên đường của con rồi! Con thấy con trâu tự mở cổng chuồng, rồi tự mở cổng nhà, khoan thai ra đồng, rồi cứ đi, cứ đi, đi mãi vào rừng. Con đi theo nó từng bước, đến khi thấy nó mất hút. Con thấy con bỗng nhiên nhỏ lại thành đứa con nít ngày xưa, lúc còn chăn trâu, ham chơi, để nghé sổng đi đâu mất. Con cất tiếng gọi to như ngày xưa gọi nghé giữa đồng không mông quạnh:

Nghé ơi nghé ạ
Nghé đi với Mạ
Được ăn được bú
Nghé đi với chú
Chỉ nhá xương khoai
Nghé đi với ai
Tiêu hành nước mắm
Nghé ơi nghé ọ…

Y như hồi nhỏ, con thấy con trâu từ trong rừng "nghé ọ" xông ra mừng rỡ. Con lùa nó xuống sông y như hồi nhỏ, tắm cho nó, rồi cưỡi trên lưng, nghêu ngao đi về nhà. Con trâu “nghé ọ” liên hồi để kêu con nghé đi theo, bỗng…

- Bỗng làm sao?

- Bỗng trong tiếng "nghé ọ" văng vẳng có tiếng ai léo nhéo càng lúc càng rõ… hóa ra vợ con đi phố về. Vậy là vẫn giữa đường đứt gánh… Bạch thầy, thầy cho con lên chùa tu luôn đi, vướng víu vợ con phiền quá!

Sư la:

- Không được! Không được! Tu đâu cho bằng tu nhà… Không có cái đuôi trâu quất vào mặt chú, không có thím Tư đi chợ về, chú dám nghêu ngao với trâu suốt ngày suốt đêm! Chú Tư à, phải biết vào “định” và phải biết ra “định”. Ngồi thiền, không phải để sống trong thiên đường của chú mà chính là để sống với thím Tư.

Lần đầu tiên, chú Tư cãi thầy:

- Thầy à, con vừa mới mon men vào đến cửa thiên đường của con thôi, thầy cho con nhởn nhơ một ngày trong đó, chưa bao giờ con lại được sung sướng như vậy.

Sư không nói gì thêm, nhưng trong bụng không yên.

Không biết mấy ngày sau đó, nhân lúc thím Tư đi nhận hàng từ xa, vắng mặt vài hôm, chú khoan khoái khóa cổng vườn, khóa cửa nhà, sau khi đã tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo tươm tất, thắp ba cây nhang trên bàn thờ, đốt thêm một lư trầm đặc biệt. Chú ngồi. Con trâu nhốt trong chuồng. Trầm thoang thoảng hương.

Chợt con trâu lấy chân mở cổng chuồng, mở cổng vườn, đẩy cửa bước ra, rồi lại lấy chân khóa cổng, lấy miệng sửa cho ngay ngắn tấm bảng treo trước cổng: "Tôi đang ở trên chùa." Xong, nó đủng đỉnh đi lên chùa, vào cổng chùa, lấy đầu húc vào đại hồng chung ba tiếng, rồi nằm khoèo trước nhà chuông.

Nghe tiếng chuông, chú Tư bước theo ra cổng, cổng tự mở, tự đóng, chân chú tự bước, tiếng chuông dẫn chú đến bên con trâu. Chú Tư lại thấy chú nhỏ lại, cầm quyển sách tập đọc lớp ba ngày xưa, ngả đầu vào bụng trâu, ê a như hồi nhỏ:

Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đó ai mà quản công
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn

Con trâu cười khì khì: "Hôm nay không có chuyện "trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta" đâu nhé!" Chú Tư hỏi: "Sao vậy?" Trâu khịt khịt cái mũi, nói giọng chế diễu: "Hôm nay là lễ lao động quốc tế, chú không biết sao?"

Ngày thường, mỗi khi chú Tư thấy con trâu ngước mõ nhìn trời, nửa mơ màng nửa đăm chiêu, chú vẫn nghĩ con trâu là triết gia hóa kiếp. Hôm nay, quả thật như thế, vì con trâu bỗng nhiên hỏi chủ: "Chú Tư à, ngày lao động quốc tế thì được nghỉ việc chân tay, chứ tư tưởng thì bao giờ cũng làm việc cả. Vậy, chú có biết hạnh phúc là gì không?"

Chú Tư ngẩn người, không trả lời được. Con trâu nói: "Thì hạnh phúc là bài thơ chú vừa đọc đó! Hạnh phúc là san sẻ, là "trâu cày với ta", là "ta đây trâu đó", là "bông lúa ngọn cỏ" của nhau. San sẻ với nhau thì "ta" cũng là "người", thì "người" cũng là "ta", chú Tư là trâu, trâu là chú Tư, cả hai là một. Hạnh phúc đơn giản như vậy đó, chú Tư à. Nếu chú cứ đi tìm hạnh phúc cho riêng chú mà quên mất trâu, làm giàu như thím Tư trên cái nghèo của người khác, thì làm sao chú nằm được bên trâu nghêu ngao như vầy!"

Chú Tư thủ thỉ: "Sao mày nói giống ông thầy tao vậy? Ông dặn tao phải tập định cho đến khi nào tao với mày là một. Tao với mày đã là một khi tao nhỏ. Lớn lên, tao xa mày. Bây giờ tao lại là một với mày. Ai cũng có thiên đường. Rồi ai cũng đánh mất. Tao tìm lại được. Vậy mà ông thầy biểu tao phải ra. Tao chần chừ …"

Con trâu lại tiếp tục cái giọng triết gia: "Chú Tư có biết chuyện Lưu Nguyễn lạc thiên thai không? Hai chàng lạc vào đào nguyên rồi kẹt luôn trong đó, đến khi về lại làng xóm thì chẳng ai nhận ra nữa. Ông thầy sợ chú kẹt trong thế giới thiền, vui chơi trong đó rồi không trở về được nữa với thực tế. Ông dạy chú vào thiền; ông đang lo chú không biết xả thiền, cứ huyên thuyên thiên đường, thiên đường đâu đâu.

Chú nhớ nhé: nãy giờ là chú đang vào thiền với trâu, chú sắp vào mức sâu nhất của định, chỗ chú và trâu là một. Ta vào nhé... Chú Tư có ngửi thấy mùi gì trong bụng trâu không? Mùi cỏ đấy. Chú cứ thử ựa lên miệng mà nhai như trâu, chú thấy không, cỏ ngọt xớt trong miệng chú. Cỏ trong bụng trâu nằm nơi miệng chú thì đích thị trâu là chú, chú là trâu rồi!"

Chú Tư nhai với trâu, nhai một hồi thấy đúng là mình đang nhai cỏ; chú vừa nhai cỏ vừa ngước mắt nhìn trời xa xăm, đăm chiêu, tư lự như trâu. Một hồi, chú phì cười: "Trâu à, tao thấy có cái gì cứng cứng trên trán, không chừng sừng mày mọc trên trán tao rồi!"

Ngoài kia, dưới xóm, thím Tư đi nhận hàng đã về, ba ngày đã trôi qua, Thím thấy cổng khóa chặt, nơi cổng có treo tấm bảng: "Tôi đang ở trên chùa", vội vàng lên chùa tìm sư. Sư cũng vội vàng chống gậy về nhà với thím Tư, bụng hơi lo. Thím Tư trèo qua cổng, hé cửa sổ nhìn vào, may quá, cửa sổ không khóa. Thấy chú Tư ngồi bất động trên nền nhà, thím Tư nổi tam bành, nhảy phóc qua cửa sổ, tiện tay vớ cây chổi lông gà quất lên đầu chú mấy cái.

Chú Tư đang sống với sừng trâu trên trán, chưa kịp tỉnh giấc đào nguyên, ú ớ: "Cái gì vậy… cái gì vậy… ấy, nhẹ tay, nhẹ tay một chút…" Chú lấy hai tay ôm lấy trán như để bảo vệ cái gì đó, miệng vẫn ú ớ: "Coi chừng, đừng làm gãy cặp sừng của tôi." Thím Tư muốn quất cho cái nữa, chú lấy hai ngón tay trỏ dán lên trán y như hai cái sừng, chổi lông gà huơ đến đâu sừng né đến đấy, trông như chú Tư đang múa lân.

Thím Tư tưởng chú bị ma ám, mở toang cửa lớn. Ngoài sân, con trâu vắng chủ nằm buồn thiu đã ba ngày ba đêm, sực thấy bóng chủ, mừng quá, "nghé ọ" một tiếng thật to, xông bừa vào nhà, húc vào thím Tư khiến thím ngã nhào trên người chú. Sư thấy quang cảnh hoạt kê như vậy, không tiện ở thêm, lẳng lặng về chùa.

Hôm sau, gặp chú Tư, sư biết thế nào chú cũng than phiền nửa đường đứt gánh, nên nói trước: "Chú Tư à, tôi hết chữ để dạy chú rồi, sức định của chú đã sâu lắm, khó ai bằng, bây giờ chú tự dạy chú. Chỉ còn một điều nhắn nhủ này thôi: mục đích của định là để mở mắt ra sống ở đời này chứ không phải để miên man tìm thiên đường trong đó. Con trâu là bước đầu, chú phải vượt qua nó đi. Bắt đầu từ nay, chú thế con trâu bằng bốn chữ, đi đứng nằm ngồi gì cũng nhớ đến bốn chữ ấy mà chiêm nghiệm, mà thực hành: Từ, Bi, Hỷ, Xả."

Tiễn chú Tư ra về, sư tủm tỉm: "Bắt đầu từ bi hỷ xả với cái chổi lông gà nghen, chú Tư! Thiên đường của chú đó!"



Cao Huy Thuần (Theo Văn hóa Phật giáo Tết Kỷ Sửu)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12286)
Sáng nay, Sư Cô định lên đỉnh núi tìm hái một ít lá cây đem về làm thuốc cho bà con trong làng.
(Xem: 13370)
Là loài hoa sanh trưởng nơi vùng nhiệt đới, nhờ kết hợp nắng mưa vào hạ mà trổ nhụy ra hoa. Do đó sắc hoa sen luôn tươi nhuần, hương hoa thì thanh nhã dịu dàng mà lan tỏa.
(Xem: 11847)
Tuổi trẻ chứa chan niềm nhiệt huyết, tâm chí cầu đạo toả sáng, học hạnh kiêm ưu, trí năng càng hiển lộ. Thuận Nguyên lại nung nấu biết bao tâm nguyện.
(Xem: 10914)
Một vùng đất bán sơn địa khô cằn sỏi đá, mùa nắng thường kéo dài. Cây cối gần như khô kiệt. Nhưng cây bồ đề vẫn xanh mát, gần như tách biệt hẳn với cảnh vật xung quanh.
(Xem: 11153)
Mới đầu hạ mà sen đã nở rộ. Nhìn những cánh sen trắng hồng tươi tắn vươn lên từ trong đầm nước, cũng làm dịu bớt cái nắng nóng mà tôi mang tận từ thành phố về đây.
(Xem: 11358)
Bạn sẽ quên được những nhọc nhằn, cay đắng hoặc bất lực của cuộc đời khi bạn hiểu được rằng đời này vốn ảo ảnh, vô thường.
(Xem: 12011)
Rong ruổi trên những nẻo đường quê tháng 8, chợt tiếng trống múa lân trong ngõ nhà ai rộn lên từng hồi làm lòng tôi chợt thấy xuyến xao bao nỗi niềm nhớ...
(Xem: 12128)
Kẻ mất búa nhìn đâu cũng thấy người trộm búa. Ừ! ai cũng hay nhìn cuộc đời qua lăng kính của mình. Chuyện anh Cuội theo đó sinh nhiều ngõ ngách nhiêu khê...
(Xem: 11787)
Đây là một câu chuyện thật về sự hi sinh của một người mẹ trong trận động đất kinh hoàngNhật Bản. Sau khi trận động đất đã qua đi...
(Xem: 11363)
Mười năm hay bao nhiêu năm đi nữa, thì ánh đạo từ bi và niềm tin của em đối với chị vẫn nguyên vẹn như cái thuở chúng ta cùng hiện hữu trên cõi đời này.
(Xem: 11812)
Dư âm về người là đời sống thanh cao thoát tục, là hạnh nguyên vị tha, là quá trình sáng tạo không ngừng nghỉ. Sư ra đi mang theo nhiều tâm nguyện còn dang dở.
(Xem: 11929)
Sáu mùa xuân trôi qua kể từ ngày chị rời xa trần thế, tôi vẫn không ngờ mình đã xa chị trong ngần ấy thời gian. Một người chị mà tôi luôn gắn bó trong suốt quãng đời tuổi thơ.
(Xem: 13307)
Từ cuối tháng 7 âm lịch, hoa ngô đồng bắt đầu rộ đỏ trên toàn đảo, làm cho Cù Lao Chàm thêm một vẻ đẹp vừa sinh động lại vườn huyền hoặc.
(Xem: 12209)
Biết cảm thông và chia sẻ niềm an vui với huynh đệ, lắng nghe và chấp nhận yếu kém của người khác để cùng nhau tinh tiến tu học, đó là những hạt giống thiện lành.
(Xem: 11710)
Đầu đuôi câu chuyện xảy ra tại Ấn độ, và đúng thật là như thế! Vào khoảng đầu kỷ nguyên Thiên Chúa giáo, người ta mới thấy bắt đầu xuất hiện các kinh sách Phật giáo...
(Xem: 11402)
Theo các các ấn bản lưu truyền tại Âu châu vào thời Trung cổ thì tại Ấn độ có một vị vua tên là Abener sinh được một hoàng tử kế nghiệp và đặt tên là Joasaph.
(Xem: 10729)
Mỗi chuyến đi là mỗi tầm nhìn được mở rộng. Mỗi chuyến đi giúp chị nhận thức rõ hơn bức tranh muôn màu của kiếp sống nhân sinh.. Chị có được những giây phút tĩnh lặng...
(Xem: 10062)
Bờ biển buổi sáng thật yên tĩnh. Tôi đi lần ra cồn cát ngay phía trước cổng chùa. Nước rút làm cho bờ cát thoai thoải trải dài một màu trắng bạc lấp lánh.
(Xem: 10505)
Dù gì thì đời sống tu hành của thầy cũng thật giản dị. Nơi thầy ở vẫn là mái am tranh đơn sơ, ăn uống thì đạm bạc, áo vải sờn vai mà vẫn thong dong tự tại với tháng ngày.
(Xem: 10823)
Quanh bờ suối, rải rác nhiều tảng đá lớn nhỏ với đủ hình thù tạo dáng lạ mắt gợi lên một phong cảnh trầm mặc u nhàn. Tuấn nhìn thấy màu y vàng của một vị sư...
(Xem: 10271)
Thời gian thấm thoắt qua nhanh, cuối cùng Ông tìm đến khu rừng Tuyết này để tịnh tu. Đạo mầu chưa chứng, nhưng Ông cũng tự tìm thấy niềm vui trong pháp thiền định.
(Xem: 11278)
Ấn tượng nhất vẫn là tượng Phật lộ thiên cao gần ba mươi mét, uy nghi giữa bốn bề lồng lộng mây trời gió núi. Tượng Phật đúc xi măng, trong ruột đổ đá xanh...
(Xem: 9871)
Ánh nắng chiều xuyên qua cửa sổ làm thầy thức giấc. Bước ra sân, thầy ngạc nhiên nhận ra cây cỏ trong vườn dịu dàng lan tỏa một sắc xuân.
(Xem: 10857)
Tâm tư cảm kích, nguồn cảm hứng dâng trào, nhà văn yên lặng suy nghĩ ra chiều tâm đắc. Ờ! Ta cũng là kẻ ăn mày nương nhờ cửa Phật.
(Xem: 11096)
Mấy năm sau này mẹ chị thích lui về sống cuộc đời tu niệm tại gia. Thế là chị cho xây một am thất ngay trong khu vườn cây xanh tĩnh lặng ở ngoại ô...
(Xem: 12548)
Thầy luôn ở bên cạnh, đôi mắt hiền từ nhìn con đầy tình thương ấm áp của người cha, miệng mỉm cười trao truyền sự an lạc từ tâm hồn tới tâm hồn.
(Xem: 12910)
Kính bạch thầy Quan Thế Âm. Thầy là vị Bồ tát có lòng đại từ, đại bi nên thầy có thể nghe mọi nỗi khổ đau của không chỉ nhân thế mà cả vạn loại chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11909)
Kính bạch thầy Di Lặc. Thầy có biết không, con đã ứng dụng thực hành giáo lý mà thầy Bổn sư Thích Ca Mâu Ni đã truyền dạy. Mỗi ngày con phải biết mỉm cười...
(Xem: 11644)
Nếu hành Bồ tát đạo thì bạn sẽ kiến tạo được bằng an cho mình - một trong vô vàn chúng sinh trong lục đạo. Khi ấy bạn sẽ có vốn liếng bằng an để hiến tặng cho người.
(Xem: 11385)
Thực ra, phiền não khổ đau chỉ biểu hiện khi tâm ta bị màn vô minh che lấp, bị chi phối bởi sự điều động của bản ngã tham sân si.
(Xem: 10133)
Sanh tử khứ lai chỉ là mộng huyễn. Làm thế nào khi rời trần thế mà lên được đài sen mới là thượng sách, mới là Phật tử chân chính...
(Xem: 11859)
Hãy im lặng để nhìn thì tôi tin bạn sẽ “ngộ” ra nhiều thông điệp sống mà cuộc đời trao ban cho mình.
(Xem: 10905)
Trời ở đây đã bắt đầu vào thu. Mỗi sớm mai khi mở cửa tôi vẫn được nhìn thấy mặt trời dần lên sau những cụm mây hồng.
(Xem: 10837)
Từ khi, tôi biết chú ý đến hơi thở và biết lắng nghe tiếng nói của con tim mình, tôi biết buông xả hơn, cười tươi hơn và biết thở đúng hơn.
(Xem: 12619)
Tôi chưa bao giờ thấy thầy tôi nổi giận, cho dù anh em chúng tôi có làm điều sai lầm. Thầy thường nhỏ nhẹ, nhắc nhở và dạy thật cặn kẽ mỗi khi chúng tôi phạm lỗi.
(Xem: 16329)
Chùa Thiện Minh, nơi tổ chức Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn lần thứ 5, do Hòa Thượng Thích Tánh Thiệt là trưởng ban... Thích Nguyên Siêu
(Xem: 12089)
Ðạo Phật hiện diện êm đềm quanh ta. Trong một thời gian dài, cứ chặng năm giờ sáng là nằm trong giường tôi nghe tiếng gõ mõ tụng kinh...
(Xem: 11848)
Nắng trong vườn thơm hương hoa bưởi, nắng gió ngạt ngào quyện bát ngát cõi tâm hương. Giới, Định, Tuệ là đây; Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến cũng là đây.
(Xem: 10396)
Sư vốn con nhà trưởng giả ở Kinh Thành. Xuất gia từ nhỏ. Cốt cách tài hoa, nên càng lớn càng tự thị. Sở học rộng rãi.
(Xem: 10527)
Theo luật nhân quả, tất cả mọi sự, mọi vật, không chừa một việc gì, đều xảy ra từ một hay nhiều nguyên nhân nào đó. Như người trồng cam thì sẽ được cam.
(Xem: 10458)
Ông là một “người lính già” đặc biệt, một “người lính già” bất tử, vì ông cũng đồng thời là một thiền sư, vì ông đã ngộ đạo với Thượng sĩ Huệ Trung trước đó.
(Xem: 11659)
Những ngày trời nắng, khi những giếng khác quanh đó đã cạn, giếng nước xóm tôi cũng chỉ hơi vơi đi một chút, rồi những cơn mưa bất chợt lại làm đầy lên.
(Xem: 12195)
Không biết tự bao giờ những câu nói dân dã quen thuộc của ba, của mẹ, của bà con hàng xóm vất vả tảo tần với cây lúa của khoai đã in sâu trong suy nghĩtâm thức của tôi
(Xem: 11707)
Việc Sầm Hoa dịch từ “tự viện” thành “chùa”, và lược dịch “Ấn Độ giáo cao cấp tăng lữ” thành “cao tăng” tức là đã có chủ ý nhắm đến đạo Phật, muốn bôi nhọ chư Tăng.
(Xem: 10620)
Những khám phá độc đáo và những lời dạy về sự giác ngộ đã trở nên gần gũi hơn qua việc thực hành tôn giáo, với khái niệm lúc ban đầu về Phật giáo đang tiến triển dần...
(Xem: 11130)
Con đường mà mỗi người phải trải qua quả thật đầy rẫy những chướng ngại, hoang mang và lầm lẫn. Vì thế phải cần có một vị thầy đích thật...
(Xem: 12075)
Trí Hải đã vượt suối trèo non tìm lên chùa Từ Vân trên núi Ngọc Trảng, phía Tây núi Kim Phụng, đến gặp thiền sư Trúc Lâm...
(Xem: 10280)
Diễm phúc sao trong phút cuối trong một đời kẻ vô nghì như tôi với quá nhiều tội lỗi lại được Hoà Thượng trụ trì ngồi niệm hồng danh Phật tiếp dẫn.
(Xem: 11358)
Hạnh phúc của con người không đến từ sự thù hận, tức giận cho nên sự trang trải tình thương trong cuộc sống xã hội là điều cần thiết nhất để hóa giải sự xung đột.
(Xem: 10805)
Xin nhớ rằng: chính nhờ những trải nghiệm khổ đau chúng ta mới đánh giá đúng đắn và hiểu thấu giá trị đích thực của hạnh phúcan lạc...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant