Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhặt cánh Vô ưu

16 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 14770)
Nhặt cánh Vô ưu


Xem hình

Ấn Độ! Từ ngàn xưa, Ấn Ðộ đã là thánh địa đối với người con Phật. Chính từ vùng đất lịch sử này mà những danh tăng Pháp Hiển, Huyền Trang, Nghĩa Tịnh... đã trở thành bất tử đối với Phật giáo Trung Hoa sau những chuyến du hành vĩ đại. Dĩ nhiên, hai chữ “Ấn Ðộ” này vẫn luôn là mộng ước của giới Phật giáo mười phương. Rồi như lời Phật dạy, “nghiệp là hành động có tác ý”.

“Tây du” thời nay không còn phải trèo đèo vượt núi, không kinh qua những sa mạc ngập tràn tử khí, hoặc giông tố bão bùng của đại dương mênh mông luôn đe dọa sinh mạng của kẻ hải hành. Hành hương hôm nay chỉ cần vài tiếng đồng hồ yên ngủ trên những con đại bàng sắt đầy đủ mọi tiện nghi như thượng khách của nàng công chúa trong lâu đài vàng là đã đặt chân đến Phật địa. Phải chăng do sự văn minh của thế giới vật chất ngày nay, với sự bùng nổ của thời đại thông tin, và với chiếc đũa thần vạn năng của khoa học mà Ấn Ðộ như đang hiện diện trong tầm mắt của mọi người đã làm cho những chuyến hành hương Phật tích đã giảm đi phần ý nghĩa của nó. Ðấy là sự thật, trong một giới hạn nào đó của ý tưởng.

Nhưng kìa, những dấu chân của Ðấng Giác Ngộ như còn in dấu đâu đây thôi thúc lòng kính tín của người con Phật mười phương: “Này A Nan, những ai trong khi chiêm bái những thánh tích (Lumbini, Sarnath, Bodhgaya và Kusinaga) này mà từ trần với tâm thâm tín, hoan hỷ, thời những vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ được sinh cõi thiện thú, thiên giới”. Và những di sản vô giá này đang mãi là những chứng nhân hùng hồn về một Ðức Phật lịch sử đối với giới Phật tử luôn mong tìm dấu vết Ðức Bổn Sư. Ấn Ðộ quả đáng tự hào, vì đã được cưu mang một Ðấng Ðại Giác để hơn 2500 năm sau những vết mòn của Ngài đã trở thành bảo vật của thế giới, và luôn ngập đầy ngôn ngữ từ muôn phương.

Ðường vào Lâm Tỳ Ni ngày nay không còn thơ mộng như thuở hồng hoang, lúc mà hoàng hậu Ma Da trên đường trở về cố quốc Thiện Giác từ Ca Tỳ La Vệ để hiến dâng cho cuộc đời một Thánh nhân vĩ đại mà bà đã có diễm phúc thai mang. Lâm Tỳ Ni bây giờ không còn là rừng cây Vô ưu (Asoka) bạt ngàn đầy bóng mát, và luôn trổi lên những khúc nhạc thanh bình của chim chóc, muôn hoa, nơi mà đã khiến người mẹ hạnh phúc nhất trần thế, trong một khoảnh khác thư thái thân tâm, với tay hái đóa Vô ưu ngàn năm hé nở một lần rồi hạ sanh hoàng tử. Và dường như rằng Lâm Tỳ Ni hôm nay cũng đang giảm dần tính thiêng liênghuyền diệu của nó khi có quá nhiều dục vọng của con người phủ đầy lên đó với vô vàn khẩu hiệu của phàm nhân. Sau hơn 25 thế kỷ hứng chịu quy luật vô thường, Lâm Tỳ Ni hôm nay chỉ còn sót lại một số di tích đang được bảo bọc bởi những lớp tường thành chùa tháp với đủ hình thái kiến trúc Phật giáo từ nhiều quốc gia, một nỗ lực chung của những người con Phật nhằm bảo vệ dấu tích của Ðấng Ðạo Sư trước sự tàn phá của thời gian và lòng người đầy trắc ẩn. Lịch sử ghi lại rằng vào thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, A Dục vương từng ngự giá đến đây để chiêm ngưỡng Thánh tích, và với lòng quy kính, một trụ đá được sai dựng tại chốn này để đánh dấu nơi ra đời của bậc Thượng nhân, rồi theo năm tháng, trụ đá ấy vẫn đang tồn tại để ấn chứng cho sự kiện lịch sử này. Cũng trong chuyến hành hương này, nhà vua đã ân giảm thuế má cho cư dân tại Lâm Tỳ Ni vì “Ðức Từ Phụ đã hạ sinh tại đây”.

Nhưng theo thời gian, vết tích như mờ dần trong tâm hồn Ấn Ðộ đến nỗi người ta tự hỏi rằng ngày nay có bao nhiêu phần trăm dân số nước này đang hướng theo dấu chân Ðức Phật! Ðâu rồi ánh đạo huy hoàng và những trang sử đầy tính nhân văn tỏa ra từ giáo đoàn Phật giáo ngay trên vùng đất sản sinh trí tuệ siêu việt này! Ðành rằng niềm tin chỉ là bước dẫn khởi trên lộ trình thực nghiệm tâm linh, nhưng người ta không thể vượt qua khổ ải nếu thiếu mất niềm tin. Cũng vì vậy, cuộc hành hương Phật tích của người con Phật được đánh dấu như bước đường thực nghiệm tâm linh, trong đó niềm tịnh tín được hiển lộ. Rồi như một hệ quả của sự thực hành lời Phật dạy, hương vị an lạc, giải thoát đến một cách tự nhiên qua tiến trình tâm lý: tín - tầm tư - tâm hân hoan - hỷ sanh - tâm an tịnh - lạc sanh - tâm định tĩnh - giải thoát sanh. Thật khó để diễn tả một trạng thái tâm linh vốn chỉ dành cho những ai tự thân thực nghiệm, nhưng có phải chăng một bước đường như vậy, bước đường chiêm bái Phật tích đúng như lời Phật dạy, đã minh chứng sinh động ý nghĩa hành hương?

Trăng thượng tuần đã ló dạng. Thấp thoáng một vài áng mây. Cả thế nhân đang quy ngưỡng về Lâm Tỳ Ni để chiêm ngưỡng hoa Ưu đàm hé nụ. Ngày ấy trăng rằm sáng lắm, những đám mây che mờ dương thế sẽ bay đi.

“Ai dùng các hạnh lành
Làm xóa mờ nghiệp ác
Chói sáng cõi đời này
Như trăng thoát mây che”.

Hoa Ưu đàm nở, hoa Ưu đàm rụng nhưng hương còn mãi. Hạnh phúc thay cho ai được một lần trở về nhặt cánh Vô ưu!



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 786)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 752)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 688)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 800)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 719)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 768)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 705)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 744)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 797)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 939)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1409)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 958)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1001)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 795)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 751)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 766)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 629)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1293)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1171)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1198)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1144)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1233)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1159)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1035)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1156)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1126)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1244)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1134)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1207)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1196)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1106)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1174)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1157)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1752)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1148)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1178)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1289)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1174)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant