Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm Chất Tôn Giáo Cần Thiết Cho Cuộc Đời

11 Tháng Bảy 201300:00(Xem: 10084)
Phẩm Chất Tôn Giáo Cần Thiết Cho Cuộc Đời

pham_chat_ton_giaoPhẩm Chất Tôn Giáo Cần Thiết Cho Cuộc Đời

 

Một trong những yếu tố khiến con người của thế giới văn minh đương thời quan tâm đến Phật giáođặc tính nhân bản của Đức Phật. Trên bình diện lịch sử, phần lớn giáo chủ các tôn giáo trên thế giới đều là thượng đế, đấng sáng thế, thánh thần, hoặc là nhân vật thần bí được mặc khải xuống trần gian để thế thiên hành đạo. Những nhân cách như thế có lẽ khó có sự đồng cảm với thế thái nhân tình của con người trong cuộc sống đời thường. Bởi lẽ, ai đã từng khổ đau vì đổ vỡ hạnh phúc, tuyệt vọng vì thất bại trong cuộc sống mới cảm nhận được giá trị của niềm khích lệ, chia sẻ và cảm thông. Một nụ cười, một lời động viên, một sự an ủi trong những tình huống như thế sẽ là chiếc phao cứu sinh giữa biển đời đau khổ. Nói theo ngôn ngữ của đại thi hào Nguyễn Du “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”. Không ai cảm nhận một cách sâu sắc nỗi đau sanh lão bệnh tử, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ… của con người bằng chính con người! Không ai thấu hiểu được hạnh phúc lớn lao của người mẹ khi thấy đứa con chính mình sinh ra lớn khôn từng ngày bằng chính những bà mẹ. Nói khác đi, chỉ có con người mới biết con người nghĩ gì, thích gì, khát khao điều gì…! Chỉ có con người mới cảm nghiệm được hạnh phúc cũng như nỗi đau về thân xác cũng như tinh thần của con người! Lý tưởng sống của tôn giáo nào giải quyết được yêu cầu trên chắc chắn sẽ được con người chấp nhận. Vì lẽ, khi được cảm thông và chia sẻ người ta dễ dàng lắng nghe nghệ thuật sống đưa đến sự an bình của nội tại ấy.

Giáo chủ của đạo Phật là một con người lịch sử! Ngài tên là Sirdattha (Tất-đạt-đa), con vua Suddodhana (Tịnh Phạn) và hoàng hậu Maya của nước Sakya (Thích-ca) thuộc đất nước Nepal ngày nay. Trước khi trở thành Phật, bậc giác ngộ được nhân loại tôn kínhquy ngưỡng, thái tử Sirdattha cũng sinh ra và lớn lên như mọi con người. Thái tử đã trải nghiệm tất cả những hương vị mặn, ngọt, chua, cay của cuộc đời; những cung bậc hỷ, nộ, ái, ố và được, mất, thịnh, suy của kiếp người. Từ đó, Ngài thấu hiểu được tâm trạng con người và cảm nhận được giá trị thật của kiếp người. Ngài biết cần phải hành xử như thế nào để giúp đồng loại trong từng tình huống cụ thể. Vì vậy, dù được thế giới kính ngưỡng, tôn xưng là Thế Tôn, bậc thầy của trời người sau khi tìm ra con đường giải thoát cho tự thân và tha nhân, Đức Phật vẫn luôn ứng dụng tinh thần khế cơ khế lý trong cuộc đời hành đạo của Ngài. Chính tinh thần tùy bệnh cho thuốc, tùy căn cơ thuyết pháp đã giúp được nhiều người ra khỏi những nỗi khổ của tự thân và có được nhân duyên tiếp xúc với đạo Phật.

Kinh Tương ưng ghi lại rằng sau khi trực tiếp nghe pháptu tập dưới sự giảng dạy của Đức Phật, Bà-la-môn nữ Bhannanjani thật sự kính ngưỡng Ngài và thường ca ngợi Ngài trong các hội chúng Bà-la-môn. Việc làm ấy đã khiến cho một bậc trí giả ngoại đạo là Bà-la-môn Bhadavada ganh tỵ, tức tối. Bhadavada mắng nhiếc bà Bhannanjani là ti tiện, ngu dốt vì buông lời tán thán lão Sa-môn đầu trọc Gotama (Cù-đàm) và tuyên bố sẽ luận phá đạo sư của bà. Để thỏa mãn cơn bực tức ấy, Bà-la-môn Bhadavada đến gặp Đức Phậtvặn hỏi Ngài rằng: “Giết vật gì được lạc, giết vật gì không sầu. Có chăng một pháp gì, Ngài tán đồng giết hại! Thưa Tôn giả Gotama”1. Thay vì phải đón nhận sự phản hồi tiêu cực theo cách thường tình của một người bị đụng chạm tự ái, xúc phạm tự ngã, Bà-la-môn Bhadavada lại được Đức Phật vui vẻ trả lời: “Giết phẫn nộ được lạc, giết phẫn nộ không sầu! Pháp ấy bậc hiền thánh, tán đồng sự giết hại; giết pháp ấy không sầu”2. Cung cách truyền giáo đầy trí tuệhòa nhã ấy đã khiến Bà-la-môn ngạc nhiên, thán phục, khởi lòng ngưỡng mộ và phát tâm xin làm đệ tử tại gia của Đức Phật. Có lẽ đây là đức hạnh cần thiết mà những người mang trọng trách truyền bá tôn giáo trong bối cảnh xã hội hiện nay cần phải nghĩ đến. Đặc biệt, trong một xã hội đang tràn ngập sự thù hận, lòng ganh ghét, đố kỵ, hơn thua vì địa vị, danh tiếngquyền lợi thì những phẩm chất tôn giáo mang đậm tính nhân văn lại cần thiết hơn bao giờ hết. Thế giới con người đang quằn quại trong chiến tranh, giết chóc, đấu đá, trả thù… bởi chính sự ích kỷ, lòng tham lam, tính tự cao, tự đại, chấp thủ, định kiến của con người. Vì thế, lòng khoan dung, độ lượng, vị tha, nhân ái là chất liệu vô cùng cần thiết, có khả năng tạo nên một môi trường sống hòa bình, hữu nghị và thân thiệnnhân loại đang hướng đến. Cách hành xử của Đức Phật được ghi lại trong Kinh tạng Pali3 có thể xem là bài học tiêu biểu để chúng ta suy nghiệm.

Với động cơ mong muốn đả bại Đức Phật để làm rạng danh tôn giáo mình (đạo Lõa thể), gia chủ Ưu-ba-li, người đệ tử tại gia trí thứcgiàu có nhất của Nigantha Nataputta, đi đến luận chiến với Đức Phật về chủ đề triết lý nghiệp. Sau cuộc luận đàm đầy gay cấnthú vị, cuối cùng gia chủ Ưu-ba-li thật sự tâm phục, khẩu phục trí tuệ siêu việt và khả năng biện tài vô ngại của Đức Phật. Sau đó, Ưu-ba-li phát nguyện quy y Tam bảo và mong Đức Phật nhận ông làm đệ tử cư sĩ. Thay vì hoan hỷ và phấn khích khi được một bậc trí giả, một người giàu có mong muốn được làm học trò mình, Đức Phật lại ân cần khuyên bảo Ưu-ba-li: “Này gia chủ, hãy chín chắn suy tư. Chín chắn suy tư là tốt đẹp với những người trứ danh như ông”. Cách hành xử một cách thận trọngnhân ái của một giáo chủ tôn giáo với người ngoại đạo đã khiến Ưu-ba-li vô cùng kinh ngạc và kính phục và phát biểu rằng: “Bạch Thế Tôn, con càng bội phần hoan hỷ, bội phần thỏa mãn với những lời Thế Tôn nói với con ‘Này gia chủ, hãy chín chắn suy tư. Chín chắn suy tư là tốt đẹp với những người trứ danh như ông’ - Bạch Thế Tôn, nếu các ngoại đạo được con làm đệ tử, họ sẽ trương cờ lên và tuyên bố: ‘Gia chủ Ưu-ba-li đã trở thành đệ tử của chúng tôi. Nhưng Thế Tôn lại nói với con: ‘Này gia chủ, hãy chín chắn suy tư. Chín chắn suy tư là tốt đẹp với những người trứ danh như ông”4

Tuy nhiên, thái độ đầy lòng nhân ái và vị tha của Thế Tôn mới thật sự làm cho Ưu-ba-li xúc độngnhận ra được giá trị tâm linh chân thật của một bậc giải thoát, người đã hoàn toàn vượt lên những danh vọng, lợi dưỡng của cuộc đời. “Này gia chủ, đã từ lâu gia đình ông như là giếng nước, mưa nguồn cho các người Nigantha. Hãy cúng dường các món ăn cho những ai đến với ông”. Lời dạy này hoàn toàn trái ngược với những gì Ưu-ba-li được nghe trước đó “Sa-môn Gotama đã nói: Chỉ bố thí cho Ta, chớ bố thí cho các người khác. Chỉ bố thí cho đệ tử Ta, chớ bố thí cho những người khác. Chỉ bố thí cho Ta mới có phước đức lớn… Nhưng Thế Tôn lại khuyến khích con bố thí cho các vị Nigantha”5.

Thái độ hành xử trên của Đức Phật có lẽ là phẩm chất tôn giáothế giới thời nay đang tìm kiếm để giải quyết những sự xung đột mang nặng màu sắc cực đoan, định kiến về tín ngưỡng, tôn giáochủ nghĩa. Khi được học tập và ứng dụng một triết lý sống mang tinh thần vị tha, độ lượng nhưng đầy trí tuệ, giải thoát vào trong chính cuộc sống của họ, người ta sẽ rất tỉnh táosáng suốt trong việc chọn lựa một tôn giáo để tôn thờ vì mục đích hạnh phúcan lạc cho mình và xã hội. Do vậy, mặc dầu bị người thầy cũ của mình tức ngài Nigantha Nattaputta mắng nhiếc, chê trách là đã bị huyễn thuật của Sa-môn Gotama chinh phục, lôi cuốn, cư sĩ Ưu-ba-li đã nói như sau: “Thưa Tôn giả, vi diệu thay, huyễn thuật lôi cuốn này! Tốt lành thay, huyễn thuật lôi cuốn này! Thưa Tôn giả, nếu bà con huyết thống thân yêu của tôi…, nếu tất cả Bà-la-môn…, Vessa…, Sudda…, chư thiênloài người được huyễn thuật này lôi cuốn, thời thật an lạchạnh phúc lâu dài cho bà con huyết thống thân yêu của tôi, cho Bà-la-môn…, cho Vessa... cho Sudda… cho chư thiên và loài người…”6.

Rõ ràng, những phát biểu của cư sĩ Ưu-ba-li xuất phát từ chính sự trải nghiệm được giá trị thật sự của một nhân cách sống vì lợi ích, an lạchạnh phúc của thế nhân, như lời dạy của Đức Phật khi nói đến giá trịý nghĩa về cuộc đời của Ngài: “Một người, này các Tỷ-kheo, khi xuất hiện ở đời, sự xuất hiện đem lại hạnh phúc cho số đông, an lạc cho số đông, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiênloài người. Một người ấy là ai? Chính là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác…”7.

 

 Viên Trí


Chú thích:

1 Kinh Tương ưng bộ, tập 1.

2 Sđd.

3 Đại tạng kinh Việt Nam, Kinh Trung bộ, tập 1.

4 Sđd.

5 Sđd.

6 Sđd.

7 Kinh Tăng chi bộ, tập 1.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2209)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1709)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2020)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1736)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1719)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1891)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1904)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1557)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1730)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2066)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1817)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2385)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1712)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1714)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1672)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2121)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1944)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2084)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1625)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2239)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1594)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1873)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1755)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1819)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1657)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2401)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2114)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2060)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1862)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2216)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1792)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1914)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2142)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1675)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1935)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1931)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2147)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1922)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1765)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1748)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1753)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1863)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2154)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1707)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1680)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2245)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1955)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1774)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2348)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1950)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant