Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Ở Trong Tâm Hay Phật Ở Ngoài Tâm

12 Tháng Chín 201300:00(Xem: 11409)
Phật Ở Trong Tâm Hay Phật Ở Ngoài Tâm

Phật Ở Trong Tâm Hay Phật Ở Ngoài Tâm

Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng

phat_va_hoa__10_

Phật! Phật! Phật! Tâm! Tâm! Tâm
Thức! Thức! Thức! Tỉnh! Tỉnh! Tỉnh

Ðó là hai câu thơ của ngài Thượng Sỹ Tuệ Trung, một vị công hầu đời Trần, đã từng cầm quân chống giặc Nguyên, sau bỏ đi tu Phật để suy ngẫm về cái hiện tượng của Tâm và cái lẽ của Thiền.

Hai câu thơ đó có ý nói rằng nền giáo lý của Phật, tuy mênh mang như biển cả, xong có thể thu gọn trong hai chữ Tâm và Phật, hoặc Mê và Ngộ.

Hãy nói về cái Tâm.

Một lần, trên núi Linh Sơn, Ðức Thích Ca ngự trên tòa sen, sắp thuyết pháp. Nhưng Ngài không nói gì cả, chỉ khoan thai đưa một cành hoa, rồi lặng lẽ mỉm cười. Ðó là tịch niện hoa vi tiếu, độc đáo lối thuyết pháp Phật giáo. Ý Ngài muốn nói như thế này: "Ta có một chân lý tối thượng, đó là chân lý của cái Tâm, nhưng cái Tâm này nó lặng lẽ lắm, nó nhỏ nhiệm, tịch mịch, vi diệu lắm. Ta không thể dùng lời lẽ thế giandiễn tả nó được. Vì nếu ta chỉ động một niệm, chỉ nói một chữ, là Tâm đó đã biến thế rồi. Vậy các người phải lặng lẽ, nhỏ nhiệm, tịch mịch, vi diệulãnh hội nó. Nhớ đấy! Nhớ đấy! ..." Nhưng các đệ tử đều ngơ ngác không hiểu, riêng có ngài Ca Diếpmỉm cười đáp lại mà thôi. Do đó, Ngài đã truyền tâm ấn cho Ca Diếp, cùng y bát để làm đệ nhị tổ của Thiền Tông. Trong giòng này, Ðức Ðạt ma là tổ thứ 28.

Một lần khác, Ðức Thích Ca xuất định, giảng về kinh Lăng Nghiêm. Cũng là giảng về Tâm. Nhưng lần này, Ngài bảo ông A Nan đại khái như sau: "Người nên thận trọng, chớ có vọng tưởng. Cái Tâm ấy nó lạ và huyền nhiệm lắm vì nó là nguồn gốc của tất cả phép lạ đã tạo nên vũ trụ này. Nó như cái gương trong đó, vũ trụ này hiện lên như một cảnh huyễn, như một giấc chiêm bao, như tiếng vang, như mặt trăng dưới đáy nước, như bóng chiếc nhạn in dưới hồ thu, như ảo ảnh nước mà kẻ lữ hành nhìn thâý trên sa mạc, như những đóm đỏ vàng mà kẻ dặm mắt nhìn thấy ở hư không. Hãy thức tỉnh! thức tỉnh! Cái tâm ấy hiển hiện dễ dàng lắm, nhưng nó khó nắm, khó bắt lắm! Nó không ở trong thân người, nó không ở ngoài thân người, nó cũng không ở khoảng giữa. Nó không ở chỗ nào hết, nhưng nó ở tất cả. Nó trụ vào cái gì, thì cái đó trở nên có, nó buông cái đó ra thì nó trở nên không. Nó là anh thợ vẽ, và chính nó vẽ vời nên cảnh thế gian này cùng tâm giới. Nó động một niệm là nó nguệch một nét, nét đó biến thành thức, thức đó động lại trên giòng tâm tư của chúng sinh để trở nên cảnh giới của vũ trụ thế gian.... Nhưng nếu người tỉnh cơn mê, dẹp bỏ lục tặclục căn, thì cái thức đó sẽ hồi đầu, rút khỏi các căn và trở về và ngươi sẽ nắm được cái Tâm."

Sau này, Ðức Huệ Năng gọi Tâm đó là bản lai diện mục.

Cũng trong kinh Lăng Nghiêm, Ðức Phật còn dạy: Cái Tâm ấy, bổn tính nó vốn trong sáng. Vì thế, các ngươi mới có "cái thấy". Cái thấy này là nồng cốt của lục căn, nhưng nó không phải là lục cănLục căn có thể bị tiêu hoại, nhưng nó không tiêu hoại. Nó không gián đoạn, nó bất diệt, và chính nó đã triển chuyển theo lẽ nhân quả, trong cái vòng luân hồi qua các kiếp.

Ðọc Tây Du Ký, thì ta thấy Tề Thiên Ðại Thánh là cái Tâm. Nó ngang ngược, thay đổi không ngừng, nhưng quyền năng của nó cũng vô cùng. Nó có thể phá cửa nhà trời, cũng như có thể hồi đầu khi bị giam bởi thần lực của câu chú: Ôm Ma Ni Pát Mê Hồng. Nó muốn lớn là được lớn, muốn nhanh được nhanh, muốn chậm có chậm. Có thể biến hoá cây thiết bổng, có thể bước một bước càn đẩu vân vượt qua 84 ngàn dặm, hoặc muốn bay như con ruồi cũng được. Muốn có một thân cũng được, hoặc phân thân làm trăm ngàn cũng có... Và Ngài Huyền Trang đã phải nương vào cái tâm đó, mới đi tới Tây Trúc cầu một cuốn kinh vô tự.

Bây giờ nói đến Phật

Ðức Bồ Ðề Ðạt Ma, chống cây gậy trúc sang Trung Hoa ngồi quay mặt 9 năm vào vách đá, nhắm đôi mắt biếc lại. Vua Lương Võ Ðế hỏi: Trẫm xây hàng trăm ngôi chùa, nuôi hàng vạn chư Tăng, có công đức gì không? Ðức Ðạt ma bảo, có chút ít, nhưng không ăn thua gì... Sở dĩ Ngài nói thế vì muốn bảo vua rằng cần nhất là phải soi vào Tâm, để trở thành Phật.... Trong một buổi thuyết pháp, Ngài lại bảo: Phật và Bồ Tát cũng đều là huyễn cả, còn là mê. Hỡi ôi, tất cả đều là mê cả!!!

Trong Bổn Kinh A Di Ðà, thì Ðức Thích Ca lại căn dặn: "Về phía Tây, có lạc quốc của Ðức A Di Ðà, bên cạnh có Ðức Quán Âm và Ðại Thế Chí. Ðức Phật ấy có thực đấy và nguyện lực của Ngài lớn lắm. Các người nên cầu nguyện mà sang đó."

Tại sao lại có sự mâu thuẫn như vậy, một đằng bảo Phật là rất có thực, một đằng nói là huyễn?

Thực ra không có gì mâu thuẫn. Chỉ là do mê và ngộ mà thôi.

Chư Phật vừa là huyễn vừa là thực. Khi tâm chúng ta còn mê mờ, chúng sinh coi thân và tâm là thực, thì chư Phật đối với chúng sinh vẫn là thực và có thể dùng tha lực cứu độ. Nhưng khi tâm chúng sinh đã ngộ rồi, thì chúng sinh cũng trở thành huyễn, và chư Phật, vốn là những hình bóng, cũng trở thành huyễn. Vì cái Tâm ngộ đã vượt qua được lãnh vực đối đãi (dualistic) và đạt tới trực quan bất nhị. (phi hữu phi không)

Bởi thế, khi một người niệm Phật, và nuôi một ông Phật trong tâm, thì lúc đầu chỉ có một ông Phật trong tâm thôi. Niệm lâu sẽ gây một luồng cảm ứng làm động tâm Ðức Phật ở bên ngoài, tức Ðức A Di Ðà ở Tây Phương. Ðức A Di Ðà liền làm mọc sẵn một chiếc hoa sen nơi lạc quốc để chờ người niệm Phật. Niệm lâu hơn nữa, thì Ðức A Di Ðà sẽ đến trước mặt người đó. Như thế, là có hai vị Phật, một ở ngoài và một ở trong tâm. Niệm đến chỗ rốt ráo và tâm bất loạn, thì Ðức A Di Ðà sẽ lọt vào tâm người đó, và trở thành một, và Phật thực cũng trở nên huyễn.

Cho nên, không thể nói Phật ở ngoài tâm hay trong tâm được. Nói ở ngoài là nói thấp, nói ở trong là cao hơn một chút. Ðến chỗ rốt ráo, thì Phật là tâm và tâm là Phật. Cả hai vừa là thực vừa là huyễn. Vả lại, Tâm ở tất cả mọi chỗ, nên không có trong hay ngoài.

Có mấy chú học sinh Thiền học ngồi cãi nhau, chỉ một tảng đá trước mặt, và tranh luận hăng hái. Kẻ thì bảio tảng đá ở ngoài tâm, một anh khác hùng biện hơn nói là ở trong tâm, và có vẻ thắng lý. Chợt ông thầy đi qua, cười bảo anh này: Ðá ở trong tâm mày, chắc đầu mày phải nặng, và nhức đầu lắm!....

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 590)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 771)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1098)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1267)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 995)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1337)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 756)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 804)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 820)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 793)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 822)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 980)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 995)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 922)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 847)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1003)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 985)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 895)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 841)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 949)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1005)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1143)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1606)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1154)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1249)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1104)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 967)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 951)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 793)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1474)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1351)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1263)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1367)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1322)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1468)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1345)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1198)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1256)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant