Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ai học thuộc Kinh sẽ được cưới làm chồng

18 Tháng Mười 201300:00(Xem: 9928)
Ai học thuộc Kinh sẽ được cưới làm chồng


Ai học thuộc Kinh sẽ được cưới làm chồng


ai-thuoc-kinh


 Tỳ-kheo Thích Nguyên Tạng

Bao giờ chúng sanh còn đau khổ còn sanh tử luân hồi, thì lòng từ ứng hiện của Bồ Tát Quán Âm vẫn biến hiện mãi mãi để cứu độ dẫn dắt chúng sanh ra khỏi luân hồi đau khổ.

Chuyện này tôi thuật lại theo lời kể của Cố Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm (1911-2003), người mà tôi có phước duyên được làm thị giả trong thời gian (đầu những năm tám mươi) tôi hành điệu trong các mùa An Cư Kiết Hạ tại đồi Trại Thủy, Chùa Hải Đức, Nha Trang. Câu chuyện sau đây được Hòa Thượng kể lại vào một buổi trưa khi tôi hầu quạt cho ngài tại Am Hoàng Trúc.

Chuyện kể rằng, tại làng nọ ở Trung quốc, dân chúng không tin Phật pháp vì họ cho đạo này là mê tín. Vì thế mà Bồ Tát Quán Âm muốn dùng phương tiện để cảm hóa chúng sanh nghiệp chướng sâu dầy trong xứ sở này, nên Ngài đã hiện thân một nữ nhân, tay xách giỏ tre, đựng mấy con cá, đi vào thôn xóm rao bán. Người trong thôn xóm thấy cô gái bán cá có dung mạo đẹp đẽ dị thường, nên ai cũng say mê và tranh nhau muốn cưới. Người thì xin cưới về làm dâu, người thì muốn cưới làm vợ, và có ông đòi cưới về làm người hầu. Người ta bu quanh nơi cô càng lúc càng đông, nhất là các chàng thanh niên mò theo sát gót. Cả ngày cá bán không được vì người ta ham mua người chứ không mua cá. Thấy đã đến lúc, cô nàng lên tiếng: “các anh đông người quá, còn em đây chỉ có một mình, làm sao làm vợ cho đủ ? Nên em xin đưa ra một điều kiện, ai đọc thuộc lòng phẩm Phổ Môn (thuộc Kinh Pháp Hoa) trong vòng ba ngày nhất định em làm vợ người đó". Ngay lập tức cánh đàn ông trong làng đi khắp xứ tìm phẩm Phổ Môn về đọc tụng. Sau ba ngày mãn hạn những người đọc thuộc lòng được bốn năm mươi người. Cô bảo: “Các anh vẫn còn số nhiều quá, không nói chắc các anh cũng biết, một mình em mà làm vợ cho nhiều người bất tiện vì nhiều lẽ. Vậy em xin một lần nữa, nếu anh nào học thuộc lòng quyển Kinh Kim Cang với thời gian năm ngày, em xin chân thành cưới lấy người ấy làm chồng duy nhất của đời em”.

Thế là một lần nữa bọn đàn ông lại gặp khó khăn, vì văn tự của kinh này trúc trắc khó đọc, lặp đi lặp lại, trùng trùng điệp điệp, chưa kể đến nghĩa lý của bản kinh này khó hiểu khó thấu. Thế nhưng, hết hạn năm ngày, vẫn có được mười người trúng tuyển. Cô nương xinh đẹp lại lên tiếng: “cũng vẫn bất tiện lắm thưa các anh, luật pháp hiện hànhluân lý cổ truyền xứ ta, vẫn chưa cho phép một bà vợ mà cưới một lần mười ông chồng. Xin các anh một lần chót này nữa thôi, nếu ai đọc thuộc lòng bộ kinh Pháp Hoa trong bảy ngày chẵn, thời tiện thiếp này xin trân trọng tuyên bố đem danh dự của kẻ hàng tôm hàng cá này ra mà đảm bảo giữ đúng lời hứa như đã hứa mấy lần trước”.

Lần này người ta gặp phải cái khó khăn hơn là tìm cho đủ bẩy quyển và ngồi xếp bằng mà lật từng trang từ đầu chí cuối cho hết bộ kinh Pháp Hoa cũng đã mất hết bao nhiêu ngày giờ, huống chi là học thuộc lòng. Một tuần lễ trôi qua, mãn hạn bảy ngày, vậy mà vẫn có một người đạt được mục đích cuối cùng, vẻ vang nhất đời, đó là chàng thiếu niên họ Mã. Chàng thông minh lịch thiệp, xuất thân từ một gia đình giàu sang vọng tộc. Cố nhiên cô bán cá phải giữ đúng lời hứa. Ngay trong đêm hoa đăng rực rỡ, yến tiệc linh đình, tân nương bỗng phát cơn đau bụng dữ dội và ngã lăn ra chết luôn.

Ô hô! Chàng Mã kia tội nghiệp biết dường bao! Đời người ai tránh khỏi cái chết! Mà chết như thế này là nghĩa làm sao? Đời sống quá đẹp đẽ như thế này sao mà không đáng sống? Nhưng sống như thế này thì sống để làm gì? Mã thiếu niên đã dùng hết tâm lực để học thuộc bộ kinh, để nhận được phần thưởng xứng đáng nhất là được một tuyệt thế giai nhân, đó là niềm hạnh phúc của đời chàng. Nhưng niềm hạnh phúc đã chắp cánh bay mất rồi. Giờ đây còn chăng chỉ là một thứ giả danh hạnh phúc và một thây chết xanh xao nằm cứng đờ xanh xao như gỗ đá vô tri không hơn không kém. Ôi nhân sinh là thế ấy, như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao… Sau khi tống táng xong, chàng ta tự hận mình là kẻ bạc phước. Chàng thề trọn đời chẳng màng cưới vợ nữa. Rồi chàng sống một đời sống của những kẻ thất tình; dẫn thân đây đó như một kẻ cuồng si. Một hôm bất giác tình cờ chàng gặp một vị lão Tăng mặc áo tím, lão nhận thấy nơi anh chàng này có bộ dạng âu sầu khổ não nên Ngài mới gạn hỏi. Chàng Mã đem hết đầu đuôi câu chuyện thương tâm của mình mà thưa trình. Nghe xong Ngài bảo: cô nàng bán cá xinh đẹp ấy vốn là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, vì ngài thấy bọn các con không tin Phật pháp nên mới thị hiện nữ thân để giáo hóa đấy thôi. Trong khế kinh Phật từng dạy: “Trước lấy sắc dục để câu thúc họ, sau mới khiến họ vào Phật đạo vậy”. Chàng Mã trở về nhà và thuật lại việc mình vừa gặp lão Tăng và cho họ biết những gì lão Tăng nói. Nhưng họ không tin nên họ quật mồ cạy nắp quan tài ra trong quan không thấy thi hài cô gái nữa. Do đó dân chúng mới tin là Bồ tát xuất hiện ở giữa đời thường mà chỉ vì vô minh mà họ không thấy đó thôi, và từ đó Phật pháp nơi làng này được truyền khắp thịnh hành, ai ai cũng tin Phật và tu niệm. Về thân phận của chàng Mã, sau khi khám phá sự thật phũ phàng này, chàng như người chợt tỉnh cơn mơ và cho rằng mình làm người thế tục cũng không còn ý nghĩa gì nữa, nên chàng lìa bỏ thế tục để xuất gia làm Tăng, rồi vào ẩn tu trong một hang núi. Về sau người ta đặt tên hang nầy là Mã Lang động, tức là hang động tu hành chàng họ Mã. Động ấy đến nay vẫn còn.

Nghe qua câu chuyện thấy được ba vấn đề liên hệ đến việc tu hành của người Phật tử. Thứ nhất, bao giờ ta chưa học đạo giải thoát chưa nghe pháp Phật, chưa trì tụng kinh điển thì nhiễm pháp vẫn lẫy lừng trong tâm, tức là ba độc tánh tham, sân, si không thể dứt trừ được. Cho nên trong câu chuyện Bồ Tát mới lấy âm thanh, sắc tướng là đối tượng của lòng tham, là căn bản phiền não để khiến dụ chúng sanh thức tỉnh.

Thứ hai, dù sống trong đau khổ phiền não nhiễm trược thế gian, mà tánh giác, tánh bồ đề vẫn sẵn có trong tâm niệm chúng sanh, do đó anh chàng họ Mã thông minh lịch thiệp kia là tiêu biểu cho trí huệ, một khi được duyên khơi dậy sẽ dễ dàng hiển thị giác ngộ chứng đạo giải thoát.

cuối cùngtính chất vô thường cụ thể xảy ra với tất cả vạn vật trên đời này, đó cũng là hình ảnh giúp anh chàng họ Mã và tất cả người trong chuyện phải ý thức quay lại chính mình để một khi đối diện với sự mất còn chết sống của thế gian sẽ biến thành chất liệu bồ đề, ý thức giải thoát, giác ngộ, mà không phải bi lụy, đau khổ thường tình trong vô minh phiền não. Mong thay câu chuyện sẽ cảnh tỉnh chúng ta ngay bây giờ và mãi mãi về sau.


Nam Mô A Di Đà Phật.
Viết tại Trường Hạ Pháp Bảo
Thích Nguyên Tạng

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 53)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 46)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 64)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 87)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 172)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 201)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 215)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 195)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 223)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 261)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 233)
Chết an lành là mong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 229)
Pháp giới là vũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 430)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 256)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 367)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 298)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 287)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 265)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 373)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 373)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 488)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 360)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 623)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 392)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 422)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 583)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 491)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 413)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 717)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 459)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 518)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 461)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 461)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 478)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 481)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 408)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 536)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 872)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 899)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 736)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1082)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 550)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 516)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 596)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 617)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 593)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 588)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 755)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 653)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 796)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant