Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sương Tan Thành Lệ

24 Tháng Mười 201300:00(Xem: 11279)
Sương Tan Thành Lệ

Sương Tan Thành Lệ

Hạnh Chi

suong_tan_thanh_leTrong những trang kinh tả cảnh giới đẹp đẽ trên cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà, có đoạn: “Bỉ Phật quốc độ vi phong xuy động, chư bảo hàng thọ, cập bảo la võng, xuất vi diệu âm, thí như bá thiên chủng nhạc đồng thời câu tác…”. Ý nói, trong thế giới của Đức Phật đó gió thơm thổi nhẹ qua các hàng cây báu cùng các màn lưới báu giăng cao, phát ra âm thanh vi diệu tựa như muôn ngàn nhạc khí hợp tấu”. Đoạn kinh này là một, trong rất nhiều họa phẩm tuyệt táckinh A Di Đà mà người thưởng ngoạn không chỉ chiêm ngưỡng màu sắc, còn rung động với bao âm thanh hài hòa, từ tự thể cảnh giới đó cất lên.

Sáng nay, khi thiền hành dọc con đường nhỏ trước giảng đường, tôi chợt bắt gặp phần nào, cảnh giới đó.

Sáng sớm, trời còn mờ sương có lẽ chưa phải là thời gian thích hợp để thong thả thiền hành đối với nhiều người. Nhưng tôi, một kẻ quen sống với giác quan thứ sáu, là thường làm những gì chợt cảm thấy muốn làm, hay nên làm, mà không sợ hãi, so đo hơn thiệt. Cũng may, giác quan này thường cho tôi biết sự thật, dù đôi khi là những sự thật rất đau lòng!

Sáng nay, biết là còn sớm, nhưng khởi niệm muốn thiền hành khi phố xá vắng người nên tôi đi vớ, mặc thêm áo, quàng thêm khăn và mở cửa bước ra ngoài. Đường vắng đến độ đôi dép tôi mang rất êm mà vẫn nghe thấy nhịp chân mình bước. Tuy tôi giữ tâm vào hơi thở đều nhưng vẫn nghe mơ hồ đâu đây, tiếng gió thơm thổi qua các hàng cây báu. Đúng thế, gió nhẹ hửng đông đang thổi qua hàng cây ven đường, vi vu, trầm bổng như tiếng tụng Lăng Nghiêm; và trên giậu tường vi, long lanh bao hạt ngọc trời đính trên lá biếc, khác gì các màn lưới báu nơi cõi nước tịnh của giáo chủ Tây Phương! Tôi dừng lại trước giậu hoa, chăm chú nhìn những hạt sương mong manh trong suốt, khẽ uốn mình qua lại trên thân lá, như chưa từng bao giờ thấy những hạt sương thoát tục đến thế. Dù kim cương được tôn vinh là đẹp nhất trong mọi loại đá quý cũng không thể đẹp bằng những hạt sương tôi đang chiêm ngưỡng vì những hạt kim cương mà nằm đây thì không thể mang vẻ thảnh thơi, tự tại được; chúng sẽ là mục tiêu của bao sự tranh giành, cướp giựt, đưa đến sân hận, oan khiên! Những hạt sương trên giậu tường vi đẹp như kim cương nhưng không lo sợ ai tranh cướp, đập nát cả. Hạt sương đến khi đủ duyên, đi khi hết duyên, và phút giây nào hiện hữu thì hoan hỷ mang thông điệp của đại-thừa Kim-Cang-Kinh, vô ngôn mà bất tận.

Tôi khẽ nhấn ngón tay trên một chiếc lá non. Hạt sương theo sức nhấn, lăn nhẹ theo, rồi đậu giữa lòng bàn tay, tròn trịa, vẹn toàn, không rơi vãi đi đâu chút nào! Với tôi, trong phút giây tinh khôi đầu ngày, hạt sương long lanh trên tay đang thị hiện cảnh giới trang nghiêm khi đại chúng đồng ngồi nghe pháp tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc:

Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán (*)

Tôi lặng người vì xúc động, tưởng như đang được nghe Đức Thế Tôn dạy ngài Tu Bồ Đề, trong đoạn 28, kinh Kim Cang, rằng, ví như có vị Bồ Tát đem bảy thứ ngọc ngà châu báu chất đầy khắp hoàn vũbố thí, thì công đức vị ấy cũng không hơn công đức của một người chợt hiểu ra, các pháp đều vô ngã; nhất là, khi người ấy chấp nhận sự thật đó một cách thảnh thơihoan hỷ.

Khi tôi rời giậu tường vi, tiếp tục kinh hành thì ánh dương cũng vừa hé rạng. Trên đường trở về chùa, tôi biết những hạt sương trên lá đang tan dưới ánh mặt trời. Sương dẫu tan thành lệ nhưng là những hạt lệ tưới tẩm đất mầu để cây lá xanh tươi hơn. Hạt-ngọc-trời trao tặng thế gian như vậy. Nhưng những hạt ngọc nhân gian tặng nhau để trang điểm cho những gì họ ngỡ là sẽ thủy chung, sẽ bất tử, lại thường vỡ nát dưới lăng kính của những tỵ hiềm, ích kỷ, dối gian, sân hận. Những hạt ngọc đó khi tan thành lệ mới là lệ trầm kha bi thảm, lệ chảy đời này chưa đủ, còn luân hồi tìm nhau kiếp khác để tiếp tục vay trả và đổ lệ đầm đìa như tinh thần sám pháp Lương Hoàng Sám từng chỉ dạy. Tại sao nhân gian thường khó đi suốt kiếp với nhau bằng sơ tâm yêu thương, ngọt ngào thuở ban đầu? Có lẽ bởi nhân gian không can đảm trực diện và quán chiếu lẽ vô thường của các pháp.

Những gì tưởng đang sở hữu, đang nắm bắt, thật ra, bản chất chỉ là giấc mộng không thật, chỉ là bọt nước, là bóng nắng, là hạt sương, là điện chớp “Như mộng huyễn bào ảnh. Như lộ diệc như điện”. Nếu quán được và chấp nhận được như thế thì sự còn, mất của người thân, sự thủy chung hay phản bội của người thương, sự gắn bó hay hời hợt của bằng hữu …v.v sẽ đi qua đời ta như những cơn gió thoảng. Ta có nắm bắt được gì đâu mà rơi lệ khóc than vì còn, vì mất? Thử hứng một hạt sương buổi sáng. Hứng bằng tất cả sự ân cần giữa lòng bàn tay, ta thấy gì trước khi ánh mặt trời rực rỡ phương đông rọi tới? Ta thấy sự chuyển hóa. Hạt sương long lanh chuyển hóa. Cái đẹp đó sẽ chuyển hóa. Như chính chúng ta sẽ chuyển hóa. Sương sẽ tan thành lệ. Ta sẽ tan thành bụi. Với tỷ lệ tương đối, có lẽ thời gian hiện hữu ngắn ngủi của hạt sương cũng chẳng kém chi một kiếp người, như ta thường tin rằng trăm năm ở trần gian chỉ bằng một ngày trên tiên giới; hoặc như đời sống của bông hồng dài hơn đời bông sứ, nhưng bông sứ lại xót thương đóa quỳnh hương, mang tất cả hương sắc tặng đời chỉ vẻn vẹn trong một đêm trăng tỏ! Vạn hữu thầm lặng mà vẫn hiển lộ bố-thí-ba-la-mật, cho hết lòng mà không chờ nhận lại.

Cũng thế, chỉ với sát na ngắn ngủi đọng trên lá non, hạt sương đã biểu hiện sự tinh khiết tuyệt đích của cái đẹp toàn vẹn trong phút giây hiện tại. Còn chúng ta, quãng đời chớp mắt trăm năm, chúng ta làm gì để thăng hoa? Thương thay! Chúng ta thường quẩn quanh mộng mị, thấy những gì trong mộng là thật. Đúng, tất cả là THẬT TRONG MỘNG, nhưng vừa khi thức tỉnh thì ngay giấc mộng cũng không còn, huống chi là những gì trong mộng ảo! Có lẽ chúng ta đều biết như thế. Biết nhưng không chấp nhận vì cái tâm mong cầu luôn vẽ ra bao cảnh trí trong mộng nên nhân gian khó thoát những sợi giây vô hình, cuốn ta mê thiếp qua bao giấc mộng ngắn, dài của kiếp người, xô đẩy tới lui giữa tam độc tham, sân, si chập chùng vay, trả. Một hành giả có lần bộc bạch cùng thiền-sư Tăng Xán: Con khổ quá! Xin Thầy dạy cho con pháp môn giải thoát. Thiền-sư nhìn học trò, vừa thương hại, vừa nghiêm giọng hỏi: Ai trói buộc ngươi?

Câu hỏi, nhưng cũng là câu trả lời thấm thía, đáng cho chúng ta suy ngẫm.

Hạnh Chi
(Độc-Cư-Am, tháng giêng 2009) 
(*) Kệ kinh Kim Cang

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 590)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 771)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1098)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1267)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 995)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1337)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 755)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 803)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 820)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 793)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 822)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 980)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 995)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 922)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 847)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1003)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 985)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 895)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 841)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 949)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1005)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1143)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1606)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1154)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1249)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1104)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 966)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 951)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 793)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1474)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1351)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1263)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1367)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1322)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1468)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1345)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1198)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1256)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant