Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Con Đường Học Phật Và Tu Phật

06 Tháng Tám 201511:10(Xem: 10518)
Con Đường Học Phật Và Tu Phật
CON ĐƯỜNG HỌC PHÂT VÀ TU PHẬT

Thích Thanh Thiện

Con Đường Học Phật Và Tu Phật

Có nhiều người nhận lầm học Phật, hiểu đôi điều về giáo lý Đức Phật là tu rồi, đây là một sai lầm lớn trong nhận thức, vì tu và học là hai phạm trù khác nhau.

Nhìn lại sự tu học của người Phật tử tại gia trong những năm qua có nhiều chuyển biến tích cực, nó đã tạo được một sinh khí tu học đầy phấn khởi cho tín đồ Phật giáo Việt Nam từ hai thập niên qua. Các vị có trách nhiệm càng lúc càng nhận rõ vai trò trách nhiệm của người hướng dẫn tinh thần mà hàng xuất gia phải đáp ứng, vì chính đây là nhu cầu bức thiết của người Phật tử tại gia trong giai đoạn hiện nay.

Có nhận rõ trách nhiệm này chúng ta mới thấy hết được con đường "cứu cánh" của đạo Phật để khỏi nhầm lẫn giữa tu Phật và học Phật. Có nhiều người nhận lầm học Phật, hiểu đôi điều về giáo lý Đức Phật là tu rồi, đây là một sai lầm lớn trong nhận thức, vì tu và học là hai phạm trù khác nhau. Tu là một sự nỗ lực chuyển hóa tâm thức, hạ thủ công phu, làm cho tâm linh càng đi vào chiều sâu của Tâm, giải quyết vấn đề nội tại của chính mình, nói cách khác Tu là một quá trình nhìn lại mình để sửa đổi làm cho các phiền não không dấy khởi làm cho mình bớt khổ đau. Còn học Phật chỉ là học lý thuyết những phương pháp nhằm làm sáng thêm con đường tu, người ta cho rằng sự tu như con đường, còn giáo lý của Phật như ngọn đèn soi sáng cho người lữ hành đi khỏi bị lạc.

Cho nên Đức Phật dạy: "Này các người hãy tự thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với Chánh pháp". Nếu người học Phật nhận thức sai lạc ngọn đèncứu cánh thì quả là tai hại. Điều này xưa nay vẫn thường xảy ra trong giới xuất gia lẫn tại gia, một ngày chỉ cần tụng một hai thời kinh, niệm vài ba câu niệm Phật, ăn chay trường, ăn chay kỳ... là tu. Có thể nói là một sai lầm lớn, cho nên người xuất gia phải hướng dẫn, tạo cho người Phật tử một quan niệm đúng đắn về chữ Tu.

Chúng tôi đã từng chứng kiến có những người học Phật, viết sách Phật học quyển này sang quyển khác, nói thao thao bất tuyệt đạo lý đầy vẻ cao siêu, tưởng như vượt ra ngoài đối đãi thường tình, nhưng khi gặp duyên xúc cảnh thì than ôi! Thật tế lý địa bất thọ nhứt trần, vạn hạnh môn trung bất xã nhứt pháp" (Trên lý thuyết chẳng dính chút bụi trần, nhưng việc làm thì không việc nào mà không bị vướng mắc).

Trong vài năm trở lại đây các lớp Phật pháp, các khóa tu Bát Quan trai, khóa tu Phật thất (Niệm Phật), các khóa Thiền thất (tham thoại đầu, toạ thiền) khắp cả nước được các Tỉnh, Thành hội hoặc các tự viện nở rộ, các khoá huấn luyện sinh hoạt Gia đình Phật tử, Chương trình Phật học hàm thụ (do báo Giác Ngộ tổ chức) cũng được tổ chức số lượng càng ngày càng đông và chúng ta cũng thấy rõ sự ham tu hiếu học của Phật tử tại gia là một điều đáng mừng cho tổ chức Phật giáo trong giai đoạn hiện nay.

Nhưng bên cạnh đó cũng có điều chúng ta phải nghĩ đến, làm sao tinh thần Phật học được đi vào đời sống của chính những người học Phật pháp. Đó chính là người Phật tử hiểu đúng nghiã chữ Tu và Học mà không phải học giáo lý để nói suông: "ăn cơm dưới đất nói chuyện trên trời" xa rời thực tế của đời sống tức là chính chúng ta tự đánh mất tinh thần thiết thực của học Phật và tu Phật và cũng chính chúng ta làm cho Phật giáo suy đồi vì rơi vào căn bệnh "hội chứng nói suông" hay tu theo "bệnh hình thức" mà Ngài Huyền Giác đã nói : "Thượng sĩ nhất quyết nhất thiết liễu, trung hạ đa văn đa bất tín, đản tự hoài trung giải cấu y, thùy năng hướng ngoại khoa tinh tấn?" (Bậc trung hạ, những căn cơ thấp kém, học thì nhiều học trích cú tầm chương, luôn mồm khoe học vị với văn bằng, cởi áo bẩn không biết đường mở nút -- HT. Thích Từ Thông dịch).

Như vậy việc học Phật và tu Phật mấu chốt ở nội tâm nhằm giải quyết những trói buộc của phiền não gây khổ đau, chứ chẳng dính mắc gì đến kiến giải suông mà các vị Tổ sư thường gọi đó là "nhai cặn bã của người xưa". Xác định được đâu mới là tu, đâu thiếu tu là ở đời sống thường ngày, chính điều này Đức Thế Tôn đã cảnh báo khi Ngài còn tại thế:

"Dầu đọc tụng nhiều kinh, tâm buông lung cẩu thả, như kẻ chăn bò thuê, khó hưởng Sa môn quả.
Dầu đọc tụng ít kinh nhưng hành trì giáo pháp, như thật tâm giải thoát, từ bỏ tham sân si, hai đời không chấp trì, thọ hưởng Sa môn quả " (Pháp cú 19-20).

Qua lời dạy của Phật ta thấy thực hành mới là tu, còn hiểu lý Phật nhưng không hành chỉ là người đứng ngoài mà Phật giáo cho đó là"ngoại đạo" dù người đó là đệ tử Phật. Từ đây có thể nhìn lại mỗi tự thân mọi sự tranh chấp hơn thua, phải quấy, chánh kiến này, chánh kiến khác, tổ chức này tổ chức kia chỉ là những trói buộc của mọi khổ đau đang có mặt trong tâm thức của anh dù anh là ai ở đâu, đang làm gì... và biết anh đang thiếu tu vì khổ đau, sân hận có mặt trong anh.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 786)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 752)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 688)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 719)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 768)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 705)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 744)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 797)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 939)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1409)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 957)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 999)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 751)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 764)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 628)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1293)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1170)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1198)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1143)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1233)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1159)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1035)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1156)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1126)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1241)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1133)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1207)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1196)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1174)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1157)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1750)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1148)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1178)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1289)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1174)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant