Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vô Thường Con Đường Dẫn Đến Giải Thoát

11 Tháng Tám 201500:00(Xem: 10924)
Vô Thường Con Đường Dẫn Đến Giải Thoát
VÔ THƯỜNG CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN GIẢI THOÁT

Thích Tâm An dịch

Vô Thường Con Đường Dẫn Đến Giải Thoát


Tất cả các pháp hữu vivô thường. Đây chính là lời dạy của đức Phật và được Ngài lập lại nhiều lần. Lời dạy này cũng là một trong những lời di huấn cuối cùng của Ngài.

Tất cả mọi pháp hữu vi, dĩ nhiên bất cứ vật gì rằng không thể phân chia thành nhiều thành phần. Tôi chợt hiểu ra rằng khoa học chứng mình cho chúng ta biết những bộ phận căn bản nhất, những nguyên tố hóa học cũng bị thoái hóa trong thời gian dài.

Hầu hết chúng ta đều nghĩ rằng sự vô thường trong tất cả mọi vật là một thực tế khó chịu, không có ai quan tâm. Chúng ta nhìn vào thế giới xung quanh, và hầu hết mọi thứ có vẻ chắc chắn và cố định. Chúng taxu hướng tìm ở những nơi ở mà cảm thấy thoải máian toàn, và chúng ta không muốn chúng thay đổi. Chúng ta cũng nghĩ rằng chúng tavĩnh viễn, từ lúc sinh ra cho đến lìa trần vẫn mãi như thế, và có thể cả kiếp sau cũng như vậy.

Nói một cách khác, chúng ta có thể biết, có thể hiểu biết rằng mọi thứ là vô thường thế nhưng chúng ta không chấp nhận bản chất mọi sự vật vốn thay đổi. Và mọi rắc rối xuất phát từ đây.

Vô thườngTứ diệu đế

Trong bài thuyết pháp đầu tiên sau khi chứng ngộ, đức Phật đưa ra lời tuyên bố về giáo lý Tứ diệu đế, Ngài đã nói rằng cuộc sống là khổ đau. Dukkha một danh từ không thể dịch chính xác sang tiếng Anh. Thế nhưng thỉnh thoảng được diễn tả để chỉ cho một sự: “căng thẳng”, “sự không thỏa mãn” hoặc “sự đau khổ.” Rất là căn bản, đời sống đầy dẫy sự tham ái và sự khao khát mà chúng ta chưa bao giờ biết hài lòng. Bản chất sự tham ái này bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết về bản chất tự nhiên của sự vật.

Chúng tôi thấy mình là con người vĩnh viễn, tách biệt với mọi thứ khác. Đây là sự thiếu hiểu biết căn bản và yếu đầu tiên của ba độc làm phát sinh các chất độc khác là tham lamsân hận. Chúng ta đi qua cuộc sống gắn kết với những thứ và muốn kéo dài chúng mãi mãi. Nhưng chúng không kéo dài, và điều này làm cho chúng ta buồn. Chúng ta đã từng kinh qua sự ghen tị và tức giận, và thậm chí trở nên bạo lực với những người khác bởi vì chúng ta bám víu vào một nhận thức sai lầm về vô thường.

Sự hiểu của trí tuệ rằng sự riêng biệt là một ảo tưởng sai lầm, bởi vì vĩnh cửu là một ảo tưởng. Thậm chí cái tôi mà chúng ta thường nghĩ là vĩnh hằng cũng là ảo tưởng. Nếu bạn là người mới học Phật, ban đầu điều này không có ý nghĩa mấy. Ý niệm nhận thức về vô thường là chìa khóa dẫn đến hạnh phúc cũng không mấy có ý nghĩa. Nó không phải là cái gì đó mà có thể hiểu bằng trí năng của mỗi cá nhân.

Tuy nhiên, Tứ diệu đế là một thực tập thông qua Bát chánh đạo chúng ta có thể nhận thức được và trải nghiệm về chân lý vô thườngthoát khỏi sự ảnh hưởng tác hại của ba độc. Khi thấu hiểu nguyên nhân của sự sân hậntham lam là những ảo tưởng, sân hậntham lam và sự khổ đau nguyên nhân của chúng thì chúng sẽ không còn.

Vô thườngvô ngã

Đức Phật dạy rằng sự tồn tại có Ba pháp ấn – Khổ (dukkha) vô thường (anicca), và vô ngã (anatta). Vô ngã cũng đôi khi được dịch là "không có bản chất" hoặc "không cái ngã." Đây là lời dạy rằng những gì chúng ta nghĩ như là "cái tôi", con người được sinh ra trong một ngày và sẽ chết trong một ngày khác chỉ là một ảo tưởng.

Vâng, ngay khi bạn đang ở đây, đọc bài viết này. Nhưng "cái tôi", bạn nghĩ là vĩnh viễn thực sự là một chuỗi những tư tưởng, một ảo tưởng kéo dài liên tục được tạo ra bởi thể xác và các giác quanhệ thống thần kinh của chúng ta. Không có sự vĩnh hằng, cố định của "cái tôi” trong thân thể bạn mà cơ thể luôn có sự thay đổi.

Trong một số trường phái của Phật giáo, học thuyết vô ngã đẩy mạnh, để giảng dạy về shunyata, hay "tánh không." Lời dạy này nhằm nhấn mạnh rằng không có cái ngã bên trong hay "mọi vật" đều là hợp thể của nhiều thành phần, cho dù chúng ta đang đề cập về một người hoặc một chiếc xe hơi hay một bông hoa. Đây là một học thuyết vô cùng khó hiểu cho hầu hết chúng ta, vì vậy tôi không cảm thấy mình dỡ nếu điều này khiến cho mọi người không hiểu. Bởi nó cần có thời gian. Nhất là đối với trường hợp ít có lời giải thích.

Vô thường và sự chấp trước

Chấp trước là một từ mà chúng ta nghe rất nhiều trong Phật giáo. Chấp trước trong bối cảnh này không có nghĩa là những gì bạn nghĩ nó có thể trở thành hiện thực.

Một hành động chấp trước yêu cầu phải có hai thứ – một chủ thể chấp trước, và một đối tượng của chấp trước. "Chấp trước", sau đó là một sản phẩm tự nhiên của vô minh. Bởi vì chúng ta thấy mình là một thực thể vĩnh viễn tách biệt với mọi thứ khác, chúng ta nắm bắt và bám víu vào những điều "khác". Chấp trước trong ý nghĩa này có thể được định nghĩa như là bất kỳ thói quen tinh thần rằng sự tồn tại mãi mãi ảo giác về sự vĩnh hằng, tách rời cái ngã.

Chấp trước nguy hiểm nhất là sự chấp trước về cái tôi. Bất cứ điều gì chúng ta nghĩ và cần là của chúng ta, cho dù chức danh công việc, một lối sống, hoặc một hệ thống niềm tin đều là một chấp trước. Chúng ta bám vào những điều này là tàn phá khi chúng ta mất chúng.

Ngay từ đầu, chúng ta đi vào cuộc sống đã tự mặc cho mình một cái áo giáp cảm xúc để bảo vệ cái tôi của chúng ta, và rằng áo giáp cảm xúc này đã đóng cửa mối quan hệ chúng ta với nhau. Vì vậy, trong ý nghĩa này, chấp trước đến từ những ảo ảnh của tự riêng biệt, cố định, và chấp trước không đến từ việc thực hiện rằng không có gì là riêng biệt.

Vô thường và sự buông bỏ

"Sự từ bỏ" là một từ khác nghe rất nhiều trong Phật giáo. Rất đơn giản, nó có nghĩa là từ bỏ bất cứ điều gì liên kết chúng ta với vô minhđau khổ. Nó không chỉ đơn giản là một vấn đề để tránh những điều chúng ta khao khát như một việc hành xác cho tham ái. Đức Phật dạy rằng sự từ bỏ chân thật đòi hỏi thông qua nhận thức như thế nào chúng ta làm cho mình không hạnh phúc bằng cách bám vào những thứ chúng ta mong muốn. Khi chúng ta làm được như vậy, sự từ bỏ theo sau là một cách tự nhiên. Nó là một hành động giải thoát, không phải là một sự trừng phạt.

Vô thường và sự đổi thay

Thế giới dường như cố định và vững chắc, bạn nhìn thấy xung quanh bạn thực sự trong một trạng thái thay đổi liên tục. Giác quan của chúng tathể không có khả năng để phát hiện ra sự thay đổi từ thời điểm này đến thời điểm khác, thế nhưng tất cả mọi thứ luôn luôn thay đổi. Khi chúng ta hoàn toàn nhận thức vấn đề này, chúng ta hoàn toàn có thể thấu rõ và bằng chính kinh nghiệm của bản thân mà không hề bám vào chúng. Chúng ta cũng có thể học cách loại trừ đi nỗi sợ hãi về tuổi già, sự thất vọng, sự hối tiếc. Không có gì là có thật vào bất kỳ thời điểm nào.

Bởi vì không có gì là vĩnh viễn, tất cả mọi thứ là có thể. Giải phóng là có thể. Giác ngộ là có thể.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viết: "Chúng ta phải nuôi dưỡng cái nhìn sâu sắc vào sự vô thường mỗi ngày. Nếu chúng ta thực hành như vậy, chúng ta sẽ sống một cách sâu sắc hơn, bớt khổ, và tận hưởng niềm vui trong cuộc sống nhiều hơn nữa. Sống sâu sắc, chúng ta sẽ tiếp xúc với nền tảng sự sống của thực tại Niết bàn, thế giới có sự sinh ra và sự hoại diệt. Tiếp xúc sâu sắc với vô thường chúng ta sẽ tiếp xúc với cái vượt ngoài cái thường và vô thường. Chúng ta sẽ tiếp xúc với nền tảng của sự sống và nhận thấy rằng những gì chúng ta gọi là chúng sinh và không phải là chúng sinh chỉ là một ý niệm. Chưa bao giờ có gì mất đi và cũng không có gì là đạt được. ("Trái tim của Bụt” (Parallax Press 1998), tr. 124].

(Dịch theo Impermanence – the Path to Liberation của Barbara O'Brien)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 921)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1240)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 710)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 680)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 752)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 764)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 744)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 737)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 886)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 771)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 930)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 933)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 858)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 867)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 807)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 954)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 887)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 831)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 919)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 840)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 795)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 893)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 822)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1077)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 856)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 943)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1089)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1565)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1100)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1172)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1048)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 912)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 861)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 892)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 747)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1422)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1297)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1259)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1207)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1326)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1266)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1403)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1281)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1145)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1200)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1251)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1233)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1358)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1253)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant