Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Buông Bỏ

02 Tháng Bảy 201511:00(Xem: 24719)
Buông Bỏ
BUÔNG BỎ

HT Thích Nhật Quang

Buông BỏHôm nay, tôi có một vài điều nhắc nhở góp thêm vào đời sống sinh hoạt tu học của đại chúng. Tôi luôn mong rằng chương trình tu học của huynh đệ trong đạo tràng được nâng lên một mức đặc biệt. Quan niệm của tôi về việc học Phật pháp không có cao thấp, tất cả đều do nhân duyên và mỗi hành giả học Phật có sự quan tâm, quyết tâm riêng. Nhìn chung tôi thấy mức độ lãnh hội Phật phápcông phu hành trì của đa số quý vị ngang bằng nhau. Tuy không xuất gia cùng một lượt và nhân duyên đến với đạo của từng vị khác nhau, không ai giống ai nên chủng duyên sâu xa của từng người đối với Tam Bảo thì không thể nói dày mỏng thế nào. Mỗi người kết một chủng duyên riêng nhưng nếu quyết chí thì ai cũng có thể thực hiện tốt sở nguyện của mình.

Khi sống trong đại chúng, tôi luôn luôn muốn gần gũi làm người đi trước nhắc nhở, động viên quý vị trên con đường tu hành. Đối với tôi đó là một nhân duyên đặc biệt, bởi thế dù thân có nhiều bệnh nhưng lúc nào tôi cũng muốn sống gắn bó với đạo tràng. Những quy chế Hòa thượng Trúc Lâm nêu lên, tôi thấy như quen thuộc từ hồi nào. Những điều Ngài dạy có uy lực, sức mạnh làm nền tảng vững cho bất cứ thiền sinh nào muốn theo tu học. Từ thập niên 70 khi được Ngài trực tiếp hướng dẫn, có một điều trong quy chế rất đặc biệt mà tôi ấn tượng là “phủi tay”. Đối với quy chế này, khi quyết tâm thực hiện phải trải qua biết bao trăn trở. Lúc chưa xuất gia, mỗi chúng ta đều có những nhân duyên riêng, bây giờ vô Thiền viện được nghe Hòa thượng tuyên bố phải gỡ bỏ hết những nhân duyên, tư kiến để thực hành tốt quy chế thiền môn.

Ngày đầu tiên lên núi, lúc đó sáng sớm Hòa thượng chống gậy đi từ trên xuống, vừa gặp Ngài tôi mừng lắm. Lễ Hòa thượng xong, Ngài bảo đi lên trên. Tôi được lãnh hai bộ đồ vàng, y áo có sẵn nên chỉ lãnh thêm một chiếc áo tràng để mặc khi tọa thiền, thọ trai. Trong khoảng chừng nửa tiếng, tôi thay đồ và gom hết tất cả vật dụng mang theo gởi cho mấy huynh đệ đem về. Hòa thượng nói đã lên tới đây rồi thì phủi tay đi, tất cả những gì dưới núi đều giao gởi lại hết. Cuộc sống ở đây đơn giản, không có nhiêu khê như phố thị.

Trước khi lên núi tôi không có sự nghiệp gì, chỉ chạy tới chạy lui lăng xăng trong những việc Phật sự nhỏ hoặc liên hệ bổn đạo Phật tử này khác. Khi đó tôi còn quá trẻ, kinh nghiệm không có, đạo đức chưa tròn, trí tuệ cũng không ra chi. Hòa thượng hỏi lý do lên núi tôi đã đáp “bừng con mắt dậy thấy mình tay không”. Thật tình nhìn lại tôi thấy cũng không có gì để phủi, chỉ một vài món đồ cá nhân như đồng hồ hoặc vài vật linh tinh không đáng kể. Khi bắt đầu đời sống buông xả, anh em chúng tôi cảm thấy quen thuộc. Vì được Hòa thượng trực tiếp hướng dẫn nên chúng tôi không gặp trở ngại hay khó khăn gì.

Sống chung huynh đệ với nhau, dần dần những gút mắc cá nhân lại trở thành kinh nghiệm chung. Có một người huynh đệcon cưng trong gia đình. Tuy đã xuất giatài sản trong nhà anh không đặt nặng, nhưng khi có chuyện cần anh ký giấy hoặc chuyển sổ chuyển tên thì gia đình kêu về. Trong những trường hợp như thế anhcố gắng cỡ nào, cuối cùng cũng phải ôm lấy nỗi niềm khắc khoải, bất ổn. Ở nhà có chuyện không tốt thường tin cho hay nên anh luôn bị vọng tưởng quay cuồng không yên. Mới đầu thấy như không có gì nhưng trong sâu lắng anh lại bất an. Nhất là những lúc ngồi một mình, nội lực tu hành không hóa giải nổi, đạo pháp không chen vô được nên nỗi bất an càng ngày càng lớn.

Đặt mình trong hoàn cảnh đó, chúng ta phải hóa giải làm sao? Những thời thiền, thời pháp và sự nhắc nhở, động viên của thầy bạn chính là phương tiện làm vơi dần trở ngại. Có những vọng tưởng chỉ phớt nhẹ bên ngoài nhưng cũng có những vọng tưởng như mũi tên cắm phập vô tim mình. Nếu huynh đệ nào bị những thứ vọng tưởng đó cắm sâu vô tim thì không được đầu hàng mà phải cố gắng giựt nó ra cho mạnh. Hồi đó chúng tôi đều là những Tăng sinh của Phật học đường do vậy phần nhiều trẻ tuổi. Người lớn nhất khoảng hai mươi sáu, hai mươi bảy, còn nhỏ nhất khoảng mười bốn, mười lăm tuổi. Vì chưa được học pháp nơi Hòa thượng ngay từ nhỏ nên chúng tôi cũng huân tập nhiều vọng tưởng. Khi được Ngài dạy vọng tưởng không thiệt, chừng đó chúng tôi mới an tâmtin tưởng nơi mình luôn có tánh giác hằng tồn tại. Bất cứ thời điểm nào trên giảng đường, dưới nhà bếp, ngoài vườn cây trong chùa… đi đến đâu gặp chúng tôi, Hòa thượng đều nói pháp cho nghe.

Chúng ta là con cháu, là đích tử đích tôn của Ngài, những điều Ngài chỉ dạy ta đã áp dụng và sống như thế nào? Hầu hết đa số mới chỉ thực hành được chút ít phần trăm, phải không? Có người làm được những việc lớn lao, còn điều hết sức bình thường lại làm chưa xong, chưa buông nổi. Chúng ta phải thường xuyên kiểm tra công phu tu hành hàng ngày. Đạo lực, trí tuệ và sự phát huy tinh thần tu học bên trong của mỗi vị được thể hiện qua các sinh hoạt hàng ngày. Cho nên nhất định chúng ta phải huân tu nội lực để tự làm chủ mình, tự thể hiện cuộc sống an vui hạnh phúc trong lòng đại chúng.
Buông bỏ là một trong những bài học đầu tiên chúng tôi được Hòa thượng Ân sư dạy. Tiêu đề Ngài dạy chung cho tất cả anh em là: “Các chú phải buông bỏ”. Trong viện có mấy đại huynh như cụ Phước Hảo, cụ Đắc Pháp là những vị lớn tuổi. Cụ Phước Hảo lớn hơn tôi 12 tuổi, cụ Đắc Pháp hơn tôi nửa con giáp. Trước khi vào Thiền viện, các vị này đều nằm trong bộ phận lãnh đạo của Học viện Huệ Nghiêm. Trong trường hồi đó có các chức vụ như Giám đốc, Giám học, Giám thị, Giám tân là Tri khách. Cụ Phước Hảo là tân Giám đốc, kế thế các Hòa thượng đi trước, còn cụ Đắc Pháp là Giám học của học viện. Mặc dù tôi không phải là giám gì hết nhưng lại có nhân duyên cùng tu học với các Ngài. Tuy không có chức vụ gì, nhưng tôi được vinh dựsư huynh dạy lại các chúng nhỏ trong học viện. Trường cấp cho chúng tôi một chiếc xe, hàng ngày đi học ở Đại học Vạn Hạnh, về có chỗ nghỉ ngơi đàng hoàng. Tới giờ thì xuống dạy kèm chúng nhỏ, cuối tháng cũng được nhận lương nữa.

Tuy chức danh nhỏ vậy thôi nhưng cũng khó thảy nó ra. Nghe ai nói gì về học viện mà có mặt mình trong đó thì mắt sáng lên. Nó là những cái khôn ngoan, lanh lợi, thông minh của vọng tưởng cho nên dần dần chúng ta có thể thấy rõ mặt thật của nó để buông. Một nụ cười bình thản sau khi tọa thiền vào buổi khuya, một cảm giác nhẹ nhàng khi nhìn trời đất thênh thang vào buổi sáng, thật vô cùng quý giá đối với tôi sau những năm tháng dong ruổi miệt mài. Chân Không bốn bề gió lộng, đứng trên núi cao nhìn xuống thấy thống khoái vô cùng. Bất chợt trong những lúc như vậy, chúng tôi áp dụng được lời dạy của Phật qua sự chỉ dạy của Hòa thượng Ân sư. Cơn gió thổi đùng đùng ngang qua rồi thôi, có ai nắm lại được đâu. Vậy mà đối diện với vọng tưởng, biết nó không thiệt nhưng bỏ chưa được. Chúng tôi tìm mọi cách để nhận ra, hiểu thấu và áp dụng sống theo lời Phật Tổ dạy ráng buông. Nếu không như thế, chẳng những không buông lại còn nuôi lớn vọng tưởng nữa mới khổ.

Buổi sáng trước khi ngồi thiền, chúng tôi làm công tác một chút. Mỗi người có dao cuốc riêng, ra vườn chuối hay phát cỏ, dọn dẹp xung quanh không vất vả lắm. Công việc tuy đơn giản nhưng đôi khi anh em không đồng quan điểm nên có sự trở ngại. Những lúc như thế Hòa thượng xuất hiện: “Đó là chỗ mấy chú chưa bỏ được nên bây giờ nó lòi ra, thấy không?” Phật dạy nó là những con rắn độc ở trong tâm chúng ta. Chỉ cần sơ sót thiếu trí tuệ, nó sẵn sàng mổ lại mình chứ không phải mổ ai hết. Đó là trải nghiệm trong công phu tu hành hàng ngày.

Người xuất gia có hai nhiệm vụ chính là thượng cầu Phật đạohạ hóa chúng sanh. Điều này ai đặt định cho mình? Nhiều huynh đệ nghĩ không ai đặt định hết, do vậy muốn làm hay không làm cũng được. Tự kiếm chỗ tu miễn sao có cơm ăn, có phương tiện sinh hoạt là đủ rồi, việc gì phải hạ hóa chúng sanh chi cho mệt. Nói như vậy nghe có thông không? Nhiệm vụ của một người đệ tử Đức Phật là phải đầu đội vai mang, giác ngộ cho mình rồi tiếp tục giúp người khác giác ngộ. Nếu chẳng như thế coi chừng mang lông đội sừng không có ngày ra. Bởi vì ta đã vai mượn của đàn na tín thí quá nhiều, nhân duyên quả báu không phải là việc có thể xem thường. Đã vay thì phải trả, trong luật nhân quả không có chuyện quỵt nợ được đâu. Nên nhớ dè dặt chớ có buông lung.

Thượng cầu Phật đạo là sao? Cầu Phật đạo là cầu cái gì? Không phải học thuộc năm bộ kinh bảy bộ luận, chứng chỉ Hán học, Sử học… mà thượng cầu Phật đạo là chỗ thâm nhận. Trong nhà thiền nói đó là kiến tánh, nhận ra ông chủ và sống được với ông chủ của chính mình. Tỉnh giác nhận ra ông chủ đừng để bị xoay chuyển bởi vọng tưởng. Cầu Phật đạo là như vậy. Cho nên tụng kinh tọa thiền nhiều thì tốt, không tụng kinh tọa thiền sẽ bị rầy. Tại sao? Vì ta chưa nhận diện và làm chủ được mình, chưa làm tròn nhiệm vụ thượng cầu Phật đạo, do vậy phải hành trì theo quy chế chung. Hàng ngày tụng kinh, ngồi thiền mấy thời, dù bệnh tật cũng phải ráng vượt qua. Có người đặt vấn đề, tu thiền tại sao phải áp đặt vô khuôn khổ cho cực. Ngồi làm gì bốn năm thời một ngày, đau chân muốn chết luôn. Hòa thượng nói vui: “Dễ mà, nếu tôi gõ đầu mấy chú thấy rắn độc lòi ra thì phải tiếp tục ngồi, ngồi nhiều hơn nữa. Khi nào nó không lòi ra thì cho mấy chú xuống núi”.

Hòa thượng dạy phải làm chủ các vọng tưởng, các dấy niệm. Khi dấy niệm khởi lên mình biết, cái biết đó là trí tuệ, nhà thiền gọi là “liễu liễu thường tri”. Chúng ta ai cũng sẵn tánh biết, nó luôn có mặt không khi nào vắng. Nửa đêm đang ngủ, có tiếng động mình biết rõ ràng đó là tiếng người đi lại hay tiếng xe chạy hoặc tiếng chó sủa. Rõ ràng cái biết luôn thường trực. Tuy nhiên nếu không dừng ở đó, nghe tiếng động giật mình, thao thức không ngủ tiếp được hoặc tức giận đùng đùng thì cái biết chân thật đã bị tâm hư dối phân biệt, vọng động che khuất rồi.

Hòa thượng thường hay nhắc chúng tôi, cái biết chân thật không bao giờ phụ bạc mình nhưng chúng ta cứ quay lưng với nó, chạy theo những bóng dáng bên ngoài. Tiếng con chó sủa biết con chó sủa nhưng không chịu dừng, ngang đó suy nghĩ thêm. Con chó sủa ai, giờ này ai đi ngang hay là có ma? Ma gì đây? Ma có đầu, ma không đầu, ma có chân, ma không chân… Tưởng tượng ra một loạt như thế. Do không dừng được nên ảo giác dẫn đi xa mịt mù. Sáng ra kể lại cho huynh đệ nghe, hôm qua tôi chiêm bao thấy con ma lớn quá, chân dài cả thước, áo của nó đen thui, đầu tóc bù xù hôi hám, nó rượt tôi chạy muốn chết. Sự thực nếu là con ma thiệt thì vị ấy đã đứng tim chết tại chỗ, đừng nói chạy nổi. Đó chỉ là những tưởng tượng mà thôi.

Tại sao người xưa thâm nhập và sống được với cái chân thật dễ dàng còn chúng ta thì không? Vì chúng ta đa tưởng tượng, quen sống với vọng động. Chư vị Tổ sư ngày xưa đa số sống trên núi non, không nghe nói các Ngài có môn đệ, nhưng khi ngộ đạo rồi thì học chúng các nơi tự tìm đến. Hành trạng của chư vị Tổ sư kể lại, các Ngài sống trên núi chỉ uống nước suối, ăn rau rừng, hái lá cây làm phương tiện che thân. Vậy mà các Ngài vẫn sống tự tại, an nhàn với trời trăng mây nước, với núi rừng bao la. Có những chi tiết trong sử khiến chúng ta hãi hùng kính phục, tại sao các Ngài có thể sống được như vậy? Bởi vì khi đã quyết chí tu hành, người xưa buông quách hết chứ không còn nhớ ba má, nhớ đất đai, địa vị và nhiều nhân duyên khác như chúng ta. Chỉ có như thế người xưa mới thanh thản vui vẻ sống đời Tăng sĩ. Tất cả đều trải qua sự tôi luyện trong điều kiện cực kỳ khó khăn nguy hiểm, mới có được sự vững vàng kiên định như thế. Ngược lại chúng ta thiếu sự tôi luyện nên sanh ra nhát nhúa không dám dấn thân. Nói buông mà thực sự chưa buông được bao nhiêu.

Chúng ta phải làm sao để được an ổn thực sự. Danh tuy nhỏ không đáng gì hết mà buông không được. Biết đời sống vô thường giả tạm cũng không tìm được niềm an vui chân thật. Không làm chủ được mình thì dở quá, phải không? Nếu biết phản quan chính mình, sống bình thường, ngủ nghỉ, làm việc bình thường nhưng luôn có trí tuệ chiếu soi thì an ổn thôi. Đối diện với bất cứ sự duyên gì, chúng ta phải biết phản quan và kiểm tra kịp thời, nhịp nhàng để giữ vững sự sáng suốt tỉnh táo, chủ động đối với tất cả pháp trần. Xuất gia tu hành rồi cần có công phu đảm bảo, sao cứ đặt vấn đề phải làm này làm kia, như thế không đúng đâu. Luôn nhìn lại mình để kiểm điểm xem công phu và chỗ đang sống như thế nào, đừng để thời gian qua suông uổng lắm.

Nhân duyên chúng ta hiện sinh trong đời này với bao nhiêu chủng nghiệp tập khí và một dãy quan hệ gia đình dòng tộc, bây giờ nói buông đâu phải dễ. Nó là những dây mơ dễ má ăn sâu trong máu thịt chúng ta từ nhiều đời kiếp, phải có thời giancông phu đắc lực mới dần dần hóa giải được. Bữa nay ngồi thiền chợt nhớ người bà con dưới miền Tây, sáng ra nhớ người bà con trên Đà Lạt, đủ thứ tâm tình phiền lụy. Những vị lớn tuổi khi nhìn lại cuộc đời đi qua thấy y như một pho lịch sử, photo tất cả những sự việc từ ngày sanh ra khóc oa oa đến lớn lên đi học, đi làm cho tới già suy. Nói thế để thấy vọng tưởng nhiều vô kể. Có lần tôi thưa với Hòa thượng Ân sư:

- Bạch Thầy, sao con nhiều vọng tưởng quá.

- Ờ, năm nay chú bao nhiêu tuổi?

- Dạ, con 70 tuổi.

- Quá không! Một đống 70 năm.

Một ngày không biết bao nhiêu sự kiện mà 70 năm gom lại thì vọng tưởng nhiều hay ít? Do vậy buông rất khó. Nếu dễ thì chỉ cần đạo lực, trí tuệ biết nó là vọng tưởng không thật, ngay đây hết. Nói buông rồi nhưng có khi chỉ bằng mặt chứ không bằng lòng. Bên ngoài sống vui hòa nhưng thực sự bên trong không ổn. Ngồi lại với nhau, nghe huynh đệ nói sơ hở một chút là vẻ mặt không ưa hiện ra liền: “Anh nói vậy sao phải, tôi không đồng ý” chẳng hạn. Vì bản ngã của mình quá lớn, từ nhỏ đến giờ đã huân tập, photo quá nhiều điều nên bây giờ tiếp duyên xúc cảnh bị dính liền.

Tâm phan duyên, phân biệt tốt xấu luôn đi đầu. Suy nghĩ manh nha, nhen nhúm khiến mình dính mắc, ghi nhậnbảo thủ đủ thứ vọng tưởng. Buông mặt này, nó hiện mặt khác. Tuy nhiên không phải là không có cách trị. Trong sinh hoạt bình thường, giờ ăn, giờ nghỉ, giờ làm việc, giờ tu học, giờ tụng kinh, giờ tọa thiền, giờ nghe giảng dạy, tất cả thời đều bình ổn. Học chỉ học, thọ trai chỉ thọ trai, đây là cách Hòa thượng dạy cho thiền sinh thực tập sống chỗ chân thật. Làm việc gì biết việc đó, tụng kinh biết tụng kinh, ngồi thiền biết ngồi thiền, ý niệm nào dấy khởi lên buông liền. Đó là cách tu giản dị nhất và cũng trọng yếu nhất để điều phục vọng tưởng.

Trước đây, tôi có nghe một số Phật tử nói chuyện về những người say mê nghiên cứu khoa học. Họ mê công việc đến mức khi hút thuốc, đưa điếu thuốc vô miệng rồi để hoài, tới cháy môi mới giật mình lấy ra. Đam mê quên ngày tháng chỉ cốt làm sao vỡ lẽ được đề tài của mình. Có vị trong ngày cưới, sắp đặt đâu đó ổn rồi, tới giờ rước dâu không thấy chú rể đâu, thiên hạ kiếm tá lả. Té ra anh ta ở trong phòng nghiên cứu đang ngồi say sưa với phát minh của mình. Đối với họ mọi việc chung quanh coi như không, quan trọng là làm sao vỡ lẽ việc của mình. Nghe thế tôi thích quá. Nếu các hành giả, các thiền sinh cũng được như vậy thì tốt biết bao. Chỉ mong đại chúng quên hết quên sạch những cù cặn, vọng động tập trung đắc lực vào công phu thì lo gì không phát minh đại sự.

Trong thiền đường của chúng ta, giờ tọa thiền có đến sáu bảy chục vị. Mới vô ngồi rất trang nghiêm, nửa chừng thấy vị này lắc qua, vị kia cúi xuống. Vọng tưởng bắt đầu bốc ra chạy loanh quanh trong nhà thiền. Ông giám thiền đóng cửa lại, cầm thiền bảng đuổi lung tung nhưng cũng chẳng đứa vọng tưởng nào rơi rụng. Đánh đằng này thì ông đằng kia gục đầu, sửa bên đây thì ông nọ ngả bên kia. Sáu bảy chục ông như vậy cho nên vô thiền đường muốn ngộp thở luôn. Vọng tưởng nhiều mà đạo lực, trí tuệ ít thì làm sao trị được. Công đức, công phu chưa có, lấy gì đối kháng vọng tưởng nghiệp tập. Ở La Hán Đường có một thiền sinh ngồi thiền rất giỏi. Tuy đã lớn tuổi nhưng ông có thể ngồi vững vàng một thời năm sáu tiếng đồng hồ. Vọng tưởng trong tâm ông giống như con trâu nằm nghỉ, không hề lăng xăng ngược xuôi. Vì con trâu ngoan ngoãn nằm nghỉ nên người chăn cũng tươi trẻ thư thả. Đó là phúc duyên riêng của ông.

Trong đạo tràng nếu có được nhiều huynh đệ tu hành như vậy là tin tức tốt. Quy chế Thầy Tổ đặt ra để nhắc nhở chúng ta tu hành, đâu phải chỉ có nấu cơm, quét sân, lái xe… Nhiệm vụ chính của người xuất giatu tập sáng tỏ chân tâm của mình, sau đó giúp đỡ mọi người cùng được lợi ích. Nguyện đem công đức đó dâng lên cúng dường Tam Bảo, các bậc Sư trưởng, các vị thiện hữu tri thức và luôn ghi nhớ công ơn lớn lao của đàn na thí chủ. Chúng ta được sống, được tu tập, ăn uống học hành đầy đủ trong môi trường tốt đẹp như thế thì ân nghĩa này nặng lắm, không phải vừa. Ngoài ra còn có những vị hộ pháp, các vị thiện thần luôn bên cạnh ủng hộ. Tuy trong thân mỗi vị có lúc phải chịu sự bất an do bốn đại trái nghịch nhưng đó chỉ là những duyên riêng. Thực sự nhìn chung đạo tràng tương đối tốt, cho nên đại chúng cố gắng phát huy tinh thần tu học, làm tròn nhiệm vụ lợi mình lợi người.

Chúng ta tuyệt đối đừng để rơi vào tình trạng trì trệ, chểnh mảng. Nếu chưa khắc phục, chưa làm chủ, chưa buông được vọng tưởng thì đâu thể yên lòng. Người xưa có câu: “Dù là việc nhỏ mà làm chưa xong, sao đành lòng nằm ngủ”. Đừng cho những dây mơ rễ má nắm bắt mình và cũng đừng nắm bắt vọng tưởng làm chi. Vọng tưởng thường làm chúng ta xốn xang bức xúc tu không tiến, cho nên phải cương quyết trị nó và thực hiện tốt nhiệm vụ của một người xuất gia.

Thời gian gần đây, trong đạo tràng có một số thầy lớn bắt đầu tham gia công tác diễn giảng, hướng dẫn Phật pháp cho Phật tử tu thiềnmọi nơi. Nhất là những vùng như Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu… nhân duyên đạo pháp đang phát triển rất tốt. Ở Bạc Liêu có đạo tràng Dũng Mãnh, Cà Mau có đạo tràng Tinh Tấn, đây là những đạo tràng thành lập từ rất sớm do Hòa thượng Ân sư đặt tên. Sau này tôi phát triển thêm một số đạo tràng khác như đạo tràng Trúc Lâm Phật Trí, Trúc Lâm Phật Huệ, Trúc Lâm Phật Châu, Trúc Lâm Vạn Phúc, Trúc Lâm Vạn Thiện, Trúc Lâm Vạn Thành, Trúc Lâm Vạn ĐứcTrúc Lâm Vạn Thông. Các huynh đệ lớn đã thay nhọc tôi gánh vác Phật sự ở những nơi này, dần dần sẽ tới lượt các huynh đệ kế tiếp.

Ngày xưa trong giáo đoàn của Đức Phật, hàng đệ tử lớn cũng theo dấu chân Ngài tiếp tục con đường hoằng pháp, như Tôn giả Đại Ca Diếp, Tôn giả Ca Chiên Diên, Tôn giả Phú Lâu Na..., bên Ni thì có Tỳ-kheo Ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề, Kherma… Các Ngài đã lãnh hội trọn vẹn giáo pháp Phật, sau đó tiếp tục sứ mệnh giáo hóa chúng sanh. Chúng ta ngày nay tiếp bước quý Ngài cũng phải thực hiện cho được hai nhiệm vụ đó. Đối với trọng trách cao cả này thì không thể đành lòng cơm cháo qua ngày được. Nhờ sự trợ lực của Tam Bảo, tôi hy vọng chư huynh đệ có thể buông bỏ những vọng tưởng, dấy niệm của mình một cách mau chóng, liên tục, để thành tựu giác ngộ giải thoát viên mãn.


Hòa Thượng Thích Nhật Quang


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12855)
Nhờ ánh sáng vô lượng của Đức Phật sẽ dắt ta ra khỏi chốn tử sinh và qua lực từ bi của Đức Phật, chúng ta sẽ được thăng hoa trong cuộc sống... HT Thích Như Điển
(Xem: 11534)
Đức Phật đã từng nói: “Nếu nước đại dương chỉ có một vị mặn thì đạo lý của ta chỉ có một vị duy nhấtgiải thoát.”
(Xem: 16740)
Chùa Hải Đức ở số 51 đường Hải Đức, phường Phương Sơn, phía Tây thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Đường lên chùa là một con dốc dài... Hồ Văn Tâm
(Xem: 19809)
Giao thừa ta đốt trầm hương ngát, Xin những bàn tay xích lại cùng. Thung Lũng Hoa Vàng xuân mới nở, Cùng nhau dựng lại một quê hương.
(Xem: 15794)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13028)
Năm sau, Ba đã ngoài 80 tuổi và vẫn muốn về Quê thăm nơi chôn nhau cắt rốn... Bạch Xuân Phẻ
(Xem: 12976)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, mong đạt được điều như ý, vì càng cầu toàn thì càng thêm đau khổ thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống.
(Xem: 13009)
Ngày 14/12/2012 vừa qua một cuộc thảm sát thương tâm đã xảy ra tại trường tiểu học Sandy Hook thuộc thị trấn Newtown của nước Mỹ... Thích Pháp Lưu
(Xem: 15447)
Nếu chúng ta là những người con Phật có Trí Huệ thì đừng bao giờ giận hờn một sự thật đã xảy ra cả. Bất chấp sự thật nó oan trái oái ăm làm phật lòng ta...
(Xem: 12169)
Những ngày tháng mầu nhiệm - Kỷ niệm lần tịnh tu nhập thất thứ 10 trên núi đồi Đa Bảo, vùng Blue Mountain ngày 22 tháng 11 năm 2012. Thích Như Điển
(Xem: 13001)
Ngưỡng mong Hòa Thượng hồi nhập ta bà để tiếp tục dìu đỡ chúng con trên bước đường tu học.
(Xem: 15632)
“Người biết sống một mình” là người “không tìm về quá khứ, không tưởng tới tương lai, quá khứ đã không còn, tương lai thì chưa tới...”
(Xem: 13740)
Trong cuộc bể dâu này tôi linh cảm ra điều thiêng liêng rằng mẹ hiền của tôi vẫn luôn luôn hiện hữu ở bên tôi!
(Xem: 14964)
Người trí có thể chuyển cái mà thế gian cho là họa thành phước, và làm tăng trưởng, phát triển to lớn hơn cái mà thế gian cho là phước đang có.
(Xem: 13686)
Truyền thống lễ Tạ Ơn của người Hoa Kỳ rất đẹp, không mang tính chất chính trị, không dành riêng cho một tôn giáo hay để tưởng niệm một cá nhân nào.
(Xem: 13658)
Lịch sử, nhất lại là lịch sử xa xưa, phần lớn là một sự pha trộn của nhiều chuyện có thật và không có thật, của những sự Thật (Truths) và những Huyền thoại...
(Xem: 12871)
Ngày Hiệp Kỵ muôn phương đều câu hội, Vượt năm châu, bốn biển kéo nhau về, Nghĩa Linh Sơn cốt nhục vẹn ước thề, Tình pháp lữ không bao giờ suy suyễn. Tịnh Tuệ
(Xem: 13561)
Yêu thương, hy sinhrộng lượng chỉ thật sự có ý nghĩa khi nào có một gợn sóng dấy lên hay một chút gì đó khác biệt mà thôi.
(Xem: 13425)
Sự thật cho thấy, mọi sinh vật hiện hữu trên thế gian này đều phải nương tựa vào nhau để được tồn tại và đứng vững điển hình như hai bó lau.
(Xem: 15120)
Anh luôn ghi lòng tạc dạthực hành lời căn dặn của sư phụ: “Tránh đại ngôn sẽ ngừa được khẩu nghiệp, Nhẫn nhục sẽ ngừa được thân nghiệp...
(Xem: 14577)
Tôi đặt tình yêu thương và sự tử tế vào trong suy nghĩ, trên đôi mắt và dưới cái miệng để lòng tôi được trong veo, con mắt tôi nhìn đời trìu mến...
(Xem: 13730)
Một sáng vừa hé mắt nhìn ra khung cửa ta thấy ánh bình minh đang chờ ở bên ngoài. Chỉ một đêm xa cách, ánh sáng của mặt trời lại trở về với mọi người.
(Xem: 14049)
Cười thật an, thật tươi (như hoa nở) để chào đón giây phút hiện tại ta còn sống là một quán niệm mang ý nghĩa tôn trọngbiết ơn sự sống tự thân của mình...
(Xem: 13262)
Chúng ta hãy nên học theo hạnh lắng nghe của Bồ tát Quán Thế Âm, sẵn sàng chia vui, sớt khổ vì lợi ích tha nhân, sẵn sàng chấp nhận khổ đau để mọi người được an vui...
(Xem: 13275)
Mặc Giang đã đem đến cho độc giả những vần thơ nhân bản sâu sắc nói lên sự vô thường giả tạm, mong manh để tìm ra cái lẽ chơn thường của cuộc đời.
(Xem: 14498)
Thực ra, phiền não khổ đau chỉ xuất hiện khi ta ước muốn chiếm hữu, nắm giữ các đối tượng ưa thích hoặc loại trừ những gì mình không mong muốn.
(Xem: 13725)
Lòng tốt, sự nhiệt tình nếu không đi cùng hiểu biết thì mọi việc sẽ khó thành tựu, khó có lợi ích thiết thực.
(Xem: 14825)
Sự dối trá không chỉ ở nghĩa thông thường là nói dối hay làm dối, mà còn bao hàm cả việc biết người khác đang gặp nguy hiểm mà không giúp.
(Xem: 17545)
Trong các phiền não của thế gian, nóng tính, giận dữ hay sân hận là những kẻ thù nguy hiểm có sức tàn phá công đức khủng khiếp nhất.
(Xem: 14266)
Phật tánh cũng lại ở ngay trong tự tâm ta. Không ở ngoài đến. Ai cũng sẵn có. Cho nên ai cũng sẽ là Phật, một khi “Thức tự tâm chúng sanh thì sẽ kiến tự tâm Phật tánh”.
(Xem: 16679)
Những độc tố của tham muốn, giận hờn và si mê tuông ra từ tâm thức của chúng ta, sẽ được tẩy rửa thanh tịnh bằng sự rộng lượng, với tình thươngtuệ giác.
(Xem: 17864)
Một sinh viên 18 tuổi đang cố xoay sở để trả học phí. Cậu mồ côi và không biết nhờ cậy vào ai để xin tiền. Rồi cậu nghĩ ra một cách thật hay ho.
(Xem: 15354)
Tôi nghĩ một nền tảng giáo dục vững chắc để từ đó nhận ra được bản tâm tự nhiênvô cùng quan trọng đối với bất cứ ai. Đó là cội gốc sâu bền...
(Xem: 15242)
Chúng ta đã bao nhiêu lần sanh ra và chết đi, đã bao nhiêu lần lặn ngụp trong biển sinh tử luân hồi, đã theo nghiệp sinh nơi này nơi khác.
(Xem: 16877)
Viết tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover Đức quốc sau những ngày đã trải qua nhiều sự kiện đáng ghi nhớ... - HT Thích Như Điển
(Xem: 29171)
Mây phương đông vẫn lên hường, Ngôi chùa còn đó quê hương vẫn còn... (Trụ Vũ - Quê Hương)
(Xem: 16139)
Câu chuyện để suy gẫm về những gì đang hiện hữu quanh ta... Những Đứa Trẻ của Trần Trung Thanh
(Xem: 17892)
Tháng Bảy đi qua, với những ngày mưa âm thầm bên phố quen, nơi dòng xe cộ đông đúc, mình ngắm mưa mà những “khung hình” về mưa cứ đi qua, đi qua.
(Xem: 19143)
Trời đã về chiều nhưng đôi chân kẻ du hành dường như không muốn ngơi nghỉ, "ta phải đi về nơi có tiếng chuông xa ngân dài kia...
(Xem: 21273)
Chúng tôi đều là những chúng sanh - như muôn vàn chúng sanh khác - đã gieo chủng tử giác ngộ từ kiếp nào đó...
(Xem: 19613)
Này tôi, tôi đang ở đây, giữa thiên nhiên tuyệt vời, giữa cái thinh lặng tuyệt vời của một nội tâm trong sáng, không chút tạp niệm nào của đời sống đua chen.
(Xem: 22809)
Có lẽ, nụ cười chân thiện của Ðức Phật cùng với những đôi mắt Từ bi của chư Phật và giáo pháp mang tính triết lý sâu sắc đã ươm những mầm xanh tươi đẹp vào tâm hồn này.
(Xem: 17130)
Phóng cá, thả chim đặt trên nền tảng tâm từ như thế thì việc phóng sinh của ta dù ít hay nhiều, dù có hay không, đều mang đầy đủ ý nghĩa phóng sinh.
(Xem: 17526)
Từ bitrí tuệ là nhân và quả hoán chuyển lẫn nhau trong nhãn quan Phật giáo. Nhân loại không chế ra hai khẩu súng để hôn nhau và tri thức con người không dấy động lên hai lời phản bác...
(Xem: 16071)
Theo chúng tôi, nói đến ĐTKVN (rõ hơn là ĐTK Việt Nam, phần Phật giáo Bắc truyền) thì phải nói đủ 3 tạng Kinh, Luật, Luận...
(Xem: 15846)
Phương tiện rất cần thiết để hỗ trợ cho thành tựu cứu cánh nhưng chạy theo phương tiện mà quên đi cứu cánh là sự vong bản, là đốt trầm để bán than.
(Xem: 21570)
Ánh mắt Từ Bi của Ngài đang nhìn xuống chúng sanh như xoa dịu bao nỗi đau thương, trong cảnh đời nhiều nỗi mưa sa bão táp, mà vỗ vềan ủi cho lòng được lắng đọng thanh lương... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 19661)
Cứ mỗi lần tụng kinh, lễ sám, quý Thầy lạy Tổ trước khi lên chánh điện, nhìn hình ảnh chư Tổ tôn trí trang nghiêm trong khám thờ mà nhớ Tổ Tổ truyền cho nhau, ngọn đèn được mồi tiếp sáng luôn bất tận... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 20031)
Ngày Về Nguồn là dịp để Tăng chúng, pháp lữ thăm hỏi với nhau và cùng nhau ôn lời Phật dạy, lặp lại ý Tổ khuyên mà tô bồi vun quén cho đạo tình ngày thêm thắm đượm... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 19299)
Bà Aung San Suu Kyi trích lời Phật khi Ngài nói về bốn nguyên do suy thoái và thối rữa: không tìm lại được cái gì bị mất, không chịu sửa lại cái gì bị hư...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant